9 bát cơm, lùm lùm bát cháy, 3 bát mày mạy, 1 bát ngô rang…
|
Cũng
trên mảnh đất này năm 1952, du kích Việt Hùng ném lựu đạn giết chết hai thằng
người làng Giắng làm phu cho Pháp khi chúng bước sang tuổi 22. Để trả thù, giặc
Pháp liền đốt cháy bảy căn nhà ba gian hai trái của cụ Thư, cụ Hoành, cụ Thạch,
cụ Miện, cụ Mạo, cụ Liễu, cụ Đạc (bố anh Điếm). Vì nghi cụ Bề lợi dụng mò cua
bắt cá, hằng đêm tiếp tế cho đội du kích Việt Hùng gồm 32 đội viên, nên giặc
Pháp bắt cụ trói vào gốc cây duối trong vườn nhà cụ Liễu và bắn vỡ một bánh chè
của cụ. Năm 1972, Cụ Liễu họ Đào, khi ấy vừa trạc tứ tuần, sau khi chỉ vào mảnh
đất này nói rằng, Đất này nghịch lắm, đã đùng đùng bỏ đi mang theo vợ
bầu và hai con dại lên xứ Thái Nguyên, khai hoang vỡ hóa giồng giọt, cho đến
tận năm 2002 khi giời đất đã sang thu, một mùa thu vàng vọt, mái tóc đã
luống tinh sương, cụ mới giở về thăm lại cố hương, tần ngần bịn rịn bên thềm
xưa vườn cũ, đang ngả bóng tịch liêu trong ráng chiều tà dương chạng vạng u
huyền….
Dân
làng không bao giờ quên được, một chiều cuối đông năm Tân Dậu, tại bến phà Tân
Đệ đột nhiên bùng phát trận kịch chiến ác liệt giữa hai băng cướp Phà Đen và
Phà Rừng để tranh giành lãnh địa. Như giời xui đất khiến, anh Điếm thản nhiên xách
con gà sống xiến khoảng ba bốn ký, chạy ngang qua bãi giao tranh khi cuộc hỗn
chiến đang đến hồi quyết liệt. Băng nào cũng cho rằng anh là người của băng kia
đi mua gà về ăn mừng chiến quả, nên chúng đánh anh để vừa cảnh cáo đối phương vừa
cướp con gà. Tên mặt sẹo bát trong băng cướp Phà Đen đột nhiên ra đòn quét trụ,
chân hắn cứng như chân sắt thủy thượng
phiêu đập mạnh vào ống đồng làm anh
ngã bật ngửa người, đầu đập xuống đất, nổ đom đóm mắt. Anh ngồi bật dậy vẫn
chưa rõ đầu cua tai ếch ra sao thì ngay
lúc đó tên da đen mắt chột bổ đòn kungfu nhất
cước giáng tử trúng ngực
làm anh thổ huyết máu vọt cầu vồng, nằm bất động thở hắt ra. Cảnh sát hụ còi
inh ỏi. Hai băng cướp dáo dác, cao chạy xa bay mất hút vào rừng phi lao bên bờ
Đông sông Hồng. Điều trớ trêu, con gà sống xiến nặng ký, mào đỏ dựng đứng, mỏ
vàng cong cong, lông vàng óng ả lại rơi vào tay băng Phà Rừng, đến từ đất Cảng,
từ nãy đến giờ chỉ tọa sơn quan hổ đấu.
Khi hoàng hôn đã trùm lên bãi chiến, một cảnh tiêu điều lạnh lẽo hoang sơ cũng
là lúc cảnh sát hình sự Thái Bình xuất hiện và chỉ kịp nghe anh Điếm thều thào lời
giăng giối cuối cùng:
-
U
ơi! Con đã là đứa con bất hiếu! Không được về làng Vẽo chăm sóc u nữa rồi!
Không bắt cá cho u ăn được nữa rồi! U hãy thứ lỗi cho con….!
Nói
xong, đầu anh nghoẹo sang một bên, máu tươi trào khóe môi, đôi mắt đẫn đờ trợn
ngược. Với nét mặt thẫn thờ, ba sĩ quan cảnh sát bỏ mũ xuống như một phản ứng
tự nhiên, nghĩa tử là nghĩa tận.... Một người vuốt mắt cho anh và đôi mắt ấy đã
nhắm lại vĩnh viễn khi vừa tròn 22 tuổi xuân thì. Anh đã chết, cái chết đầy oan
khốc, tức tưởi, thê lương….
Ấy
thế mà ba mươi cái giỗ đã trôi qua, không một ai chỉ cho dân làng nơi anh yên
nghỉ vĩnh hằng, để thắp lên phần mộ còm cõi ấy một nén nhang muộn màng trong
chiều đông tàn, gió heo may vờn quẩn, rờn rợn nước sông…
Già
làng kể. Mùa xuân năm 1979, lũ giặc Khựa sang xâm lược nước Đại Việt ta. Vua
ban hành lệnh tổng động viên huy động tráng niên ra biên cương chặn giặc. Giai
làng nô nức tòng quân. Trong dòng người đó có cả anh Điếm. Khi nhìn thấy anh,
người sĩ quan tuyển quân, đeo quân hàm đại úy, há hốc mồm ngạc nhiên, mắt chữ O
mồm chữ A. Anh nói nhẹ nhàng:
-
Em
về tắm rửa sạch sẽ đi nhé! Sáng mai ra xã anh sẽ nhận bổ sung quân.
Ngay
chiều tối hôm đó Điếm dùng lá chuối Tây xin được ở trại chăn nuôi, xuống ao Miếu
tắm rửa kỳ cọ suốt ba tiếng đồng hồ. Khi nhìn thấy đàn cá tung tăng bơi lượn
chung quanh, trong lòng khấp khởi mừng thầm, ngày mai cũng như bao giai làng hớn
hở, kiêu hùng phi ngựa truy phong lên đường ra biên cương đánh giặc. Nhưng ngày
hôm sau vẫn là những cái lắc đầu đầy ái ngại.
Chao
ôi! Một điều giản dị là được chết cho non sông, nhưng với anh đó là khát vọng
bỏng cháy chẳng bao giờ thành hiện thực…
Chẳng được chết vinh vì tổ quốc
Thôi đành chết thẹn chốn lao xao
Lá vàng khô lệ trên cao
Lá xanh rụng xuống về nơi cuối giời
Lá
xanh rụng trước lá già
Con
đành lỗi đạo mẹ cha đừng buồn
Xin
đừng nhỏ lệ sầu tuôn
Coi
con mất tích tha phương lạc loài
Nắm
xương gửi lại xứ người
Từ
nay con lãng quên đời ra đi
Tự
đem đầy đọa thân mình
Giờ
như chiếc lá lìa cành xứ xa…
Sinh
thành cha mẹ mà ra
Giờ
như hạt muối quẳng xa ngàn trùng
Còn
đâu xóm nhỏ Việt Hùng
Còn
đâu cát bụi mịt mùng sớm khuya…
Vụng về lau giọt nước mắt trộm lăn trên gò má, cụ Tầng kể. Cuộc đời anh Điếm
mười phần khốc liệt vẫn chả thấm tháp vào đâu so với quãng đời bầm dập, bụi
bặm, lầm than, đắng cay khổ cực của bà Tý Ngan, một người đàn bà đen đúa, sống
một kiếp đời cô phụ mà ngay cái ngày sinh tháng đẻ không thôi cũng đã bị ông
giời nổi giận sai thiên lôi, trút lên đầu bà bao lâm ly bi đát thấu đến tận
giời xanh….
Thà cứ
chết quách như anh Điếm cho xong, nhỡ khi còn sướng. Chứ sống mà như ngọn đèn
leo lét trước ngọn gió la đà thì sống còn khổ hơn là chết?
Tre làng ta bao nhiêu lá, đời bà Tý Ngan
khô cằn sỏi đá bấy nhiêu…
Dân làng vẫn không biết bà Tý Ngan họ gì, chi
chòm nhà nào. Chỉ biết loáng thoáng bà là bà cô thúc bá người bác rể vợ cụ lang
Hành ở xứ Hoa Hồng Bạch ven sông Trà Lý, một nhánh của sông Hồng chảy vắt vẻo
qua tỉnh Thái Bình.
Cũng mang nặng đẻ đau, cũng chín tháng
mười ngày như ai, một người đàn bà gầy guộc như con mắm, sau cơn đau vật vã thừa
sống thiếu chết, đã đẻ ra cái bọc thịt như cái bao tử của con lợn chục kí. Mọi
người trợn mắt lè lưỡi thất kinh, có người còn bỏ chạy vì quá khiếp sợ. Chỉ bà
đỡ là có lá gan đủ to liền cầm cái bọc thịt đó vất ra góc sân chờ đem chôn. Vừa
lúc đó một trận mưa rào tầm tã như trút nước, nên người ta không thể khâm liệm
cho cái quái thai dị dạng, tởm lợm mà trong đời chưa ai nhìn thấy bao giờ, kể
cả bà đỡ làng có thâm niên ba tá năm đỡ đẻ, cả làng trong lẫn làng ngoài….
Trong lúc vài ba người còn đang vót nan
đan sọt để làm áo quan thì có tiếng trẻ con khóc oe oe ghê rợn, sởn da gà...
Mọi người lao ra thì nhìn thấy một con ngan đang mổ rách cái bọc thịt làm lòi
ra một hài nhi xấu xí, đen tuyền như củ tam thất, giẫy giụa, khóc thét trong
sấm chớp gió mưa… May mà bà đỡ chưa ra về nên mọi việc hộ sinh, hậu sản được
hoàn tất.
Thế
là một sinh linh đã chào đời khác người, kì quái, chết tiệt như vậy đó …
Khi
được hỏi đặt tên cho cháu là gì, bà đỡ giơ bàn tay lên nhẩm tính:
- Năm nay là năm Tý, con ngan đực nhà hàng
xóm lại cứu nó, đỡ đẻ cho nó nên đặt tên cháu là Tý Ngan.
Giời ạ! Đặt tên
gì mà kì cục vậy hả giời? Tên là Tý là được rồi. Tý sửu dần mão thìn tỵ ngọ mùi…Thiên
hạ người ta đặt đầy ra đấy. Tên là Ngan lạ quá! Con ngan suốt đời kêu..kíu kíu…
Người mang tên này khổ suốt đời cho coi.
Lớn
lên, mặc dù được thầy u yêu thương quý mến, nhưng Tý Ngan vẫn là cô bé còi cọc,
đen thô, vì thiếu ăn thiếu mặc. Mới lên mười tuổi Tý Ngan đã chịu tang cha lẫn
tang mẹ mà cả hai cái đại tang này chỉ cách nhau trong vòng hai tháng. Họa vô đơn chí, phúc bất trùng lai, hai
cha con gã địa chủ xóm Chùa dã man tàn nhẫn lại đến xiết nợ, tịch thu mảnh
ruộng sào hai khi lúa đang thì con gái. Đứa trẻ mồ côi buộc phải chấp nhận cuộc
đời cơ hàn, nghèo khổ, hành khất, bất hạnh. Quần áo thì vá chằng vá đụp. Mái
nhà lợp rạ cũ nát, đã lâu không được thay, chỉ được phủ lên bằng ngọn lau, tàu
chuối, cành duối… Cứ mỗi trận mưa rào, trong nhà không khác gì ngoài sân. Bão
giật đổ nhà, bà con lối xóm, mỗi người một tay giúp dựng lại. Dù rách như tổ
đỉa nhưng cũng có chỗ cho bà chui ra chui vào. Chưa biết một bữa no, nên lại
càng coi thường cái đói. Chưa có một ngày sướng nên cũng không biết mình khổ. Hơn
ai hết bà biết nâng niu từng củ khoai, củ sắn, nắm cơm mà người đời bố thí cho
bà. Đã là kẻ hành khất thì phải tha phương cầu thực, càng đi xa nhà, càng tốt.
Đằng này, chưa một lần bà ăn xin ở làng bên. Ngay từ nhỏ bà đã biết giữ thể
diện cho làng. Cũng đã ngoài hai mươi, nhưng giai làng không một ai đoái hoài
dòm ngó… Biết xấu hổ với thiên hạ, nhưng lại rất dạn dĩ với người làng. Nhưng
xin mãi cũng ngại, bà Tý Ngan liền nghĩ ra một diệu kế. Mang theo hai cái bát,
sang nhà cụ Tầng thì nói: Cho
tôi tí cơm để ăn nốt tí canh, nhưng khi qua nhà cụ Vạn lại năn nỉ: Cho tôi tí canh để ăn nốt tí cơm.
Cuối cùng có cả cơm, cả canh. Sao mà khôn thế? Ruốt đời, có lẽ bà Tý Ngan chỉ
được một, hai lần ăn no. Một ngày đẹp giời, dân làng Vẽo mời bà đi ăn giỗ, sắp cho
riêng bà một mình một mâm và cho bà ăn thỏa thuê. Đó là lần đầu tiên bà được ăn
no căng bụng. Lũ trẻ chạy theo hỏi bà sao ăn nhiều thế? Vừa đi, vừa vỗ bụng bồm
bộp, bà nói : 9 bát cơm, lùm lùm bát cháy, 3 bát mày mạy, 1 bát ngô rang,
cha bố đứa nào, bảo tao ăn nhiều nhất? Lũ trẻ cười rúc rích như bị cù buồn.
Dù đói ăn, có nhiều ngày đứt bữa, nhưng trưa đó trời mưa to, khi ra khỏi nhà
thì đã quá bữa không xin được ai.Thương người, cụ Bề mặc dù một mình thân già
đầu tắt mặt tối, đi sớm về khuya phải lo cho năm đứa cháu nheo nhóc mồ côi cha
mẹ, gọi cụ bằng bác ruột, nhưng vẫn dành cho bà vài ba củ khoai luộc. Giữa
đường gặp một người ăn mày, không chút mảy may do dự, bà đã cho hết những củ
khoai vừa xin được. Cả ngày hôm đó không một thứ gì vào bụng, bà vẫn gượng
cười dù ngày mai vẫn không biết ra sao. Lần đầu tiên, bà sang ăn cỗ ở làng Cau.
Cũng là một cỗ giỗ. Người ta cho bà say túy lúy bằng vài ba chén rượu nút lá
chuối. Chao ôi! Cái hương vị vừa cay vừa nồng của nếp quýt hoa vàng nó tuyệt
vời làm sao! Mà sao cả đời, nay mới được uống? Giữa khuya bà mới lội đồng về
làng. Chậm rãi, bước từng bước một, bước thấp bước cao, chân nam đá chân chiêu
lập cập, bà bước xuống bậc cầu ao, bậc tam cấp bằng đá xanh, một hai bậc nữa là
ao sâu ngập nước, bà sẽ nộp mạng cho tử thần. Bà Tý Ngan! Dừng lại đi! Chết bây
giờ! Nào bà có nghe. Lập cập bước tiếp. Bỗng một tiếng sấm kinh hoàng kèm
theo tia chớp sáng rực trời, bà kịp nhận ra, hoảng hốt và vội vã quay lên. Lần
thứ hai, bà lại được giời cứu. Nhưng giời bỗng nhiên lại đen kịt, mây đen vần
vũ, từng đàn cọc kẹ bay loạn xạ tung hoành... Càng đi, càng lạc lối. Tự nhiên
có hai bóng đèn xuất hiện trước bà ba mét, nó lăn trên đường dẫn bà đi từ
xóm Đó, dần dần cũng về được đến nhà. Khi rẽ ngang vào cổng nhà, như biết rằng
bà không thể lạc được nữa, hai cái bóng đèn vụt bay lên mái nhà. Bà Tý Ngan
liền quát: Mày dẫn tao về là
được rồi. Sao lại đốt nhà tao? Hai bóng đèn liền vụt tắt. Vào nhà, hai xoa
ba đạp, đặt lưng lên chõng tre gồ ghề, bà ngáy o o, khò khò cho đến khi giời
sáng bảnh mắt.
Năm
1976, mùa hè nóng chết cua, mùa đông rét chết cá. Đêm hè năm đó, hầu như người
lớn không ai ngủ được vì cái nóng kinh hồn. Giữa khuya ngồi hóng mát dưới gốc
cây quéo đầu làng, phe phẩy cái quạt mo, nhớ lại chuyện xưa, xưa lắm… Cụ Thạch
cao hứng kể rằng:
Thưa chư ông, chư bà! Suốt đời làm việc
thiện chữa hóc xương gà cho thiên hạ nhưng chưa ai khó chữa bằng bà Tý Ngan.
Tôi đã phải thắp ba tuần nhang, rang ba bát cám, múc tám ca nước giếng, dâng
lên bàn thờ, khấn vái ba chục lần mà xương gà vẫn không trôi. Rồi bà ta bỏ về.
Khạc ho rũ rượi tưởng chết. Ấy thế mà sáng sớm hôm sau bà ta chạy sang nhà tôi,
nói oang oang là lúc ngủ mê, ngủ mệt có một người đàn ông lạ hoắc, răng trắng,
lưỡi đỏ, mặt đen sì thò tay bóp cổ bà, bóp lè lưỡi trợn mắt ói ra xương. Bà ta
còn cầm một mẩu xương gà có dính máu cho tôi xem. Kinh thật! Cả năm mới được
một lần ăn thịt gà. Nuốt cả xương chân lẫn xương cổ. Khổ thân bà!
Lần
thứ tư, giời thương người nghèo khổ, giời lại cứu.
Một
lần xin được mấy thìa mỡ lợn từ nhà cụ Mễ, bà mang về phi hành thơm phức và
rang với mấy con đỉa mà bà bắt được khi theo một người hàng xóm ra đồng. Bà
khen đỉa rang ăn rất ngon. Nhiều người lè lưỡi rùng mình và làm thơ chế giễu
bà:
Giun
xào đỉa luộc cóc nấu riêu
Ai
mà kinh tởm biếu bà Tý Ngan
Ngày
bà ốm, cả làng biết. Người ta thấy bà Khuy, bà Hàm, bà Chu thay nhau mang cháo
hành nóng có lá tía tô và ngải cứu cho bà. Mặc dù đã thoát tục tu hành, gõ mõ
tụng kinh, mặc áo cà sa, ở hẳn trong chùa Trình Lâm, nhưng ni sư Hậu Bòn vẫn
sắc ba thang thuốc Bắc mang cho bà uống. Một tuần sau thì bà dứt bệnh. Bà Hậu
Bòn còn mang cho bà ba bộ quần áo chúng sinh đời thường mà từ khi vào chùa,
chưa cho ai. Năm Ất Dậu, dân làng đói dặt dẹo, có nhiều người chết thê chết
thảm đầu làng cuối xóm nhưng bà vẫn sống và cười nhăn răng vàng khè. Thậm chí
người ta còn nhìn thấy bà lẽo đẽo theo cụ Chuyển đi đổ cháo phát chẩn và cứu
được rất nhiều người khỏi chết đói. Có người độc miệng đã chế diễu bà: Ốc không mang nổi mình ốc lại còn
mang cọc cho rêu. Bà không tự ái mà còn lấy làm hãnh diện. Tại sao khá
nhiều người chết đói mà bà lại không chết? Cũng vì lẽ nhà giàu không thể nhịn
ăn quá ba ngày, còn với bà cái no hiếm hoi, cái đói cả đời, nên nạn đói kinh
hoàng cũng chỉ như làn gió thoảng. Hơn nữa nhà giàu cho tiền không dám ăn, còn
bà nuốt cả thằn lằn, cóc nhái, chuột con còn đỏ hỏn chưa mở mắt…Nhà giàu không
biết, còn bà thừa biết góc vườn nhà nào có rau má, lá thài bi, bà xin hái mang
về nấu canh với nắm ốc vặn mà bà xúc được ở dưới ao….
Dân
làng Vẽo thật khổ. Chết đói chưa chôn hết, giờ lại chết no. Du kích Việt Hùng
phá kho thóc của Nhật cấp phát cho dân. Vì bị đói lâu ngày nên người ta ăn cho thật
no, cho đã cơn đói nên lại chết vì bội thực. Riêng bà Tý Ngan thì không. Ngày
nào bà cũng được ăn cháo nhà cụ Chuyển. Làm sao mà bội thực được. Khi được du
kích Việt Hùng cấp phát một tạ thóc, bà không biết làm gì vì đã không quen như
người ta ngày hai lần đỏ lửa. Bà liền đưa số thóc đó cho cụ Nẫm nấu giùm ăn
dần. Sau đó 3 tháng bà lại tự giác trở lại kiếp hành khất như ngày nào, mặc dù
cụ Nẫm đã mời bà ở lại.
Đêm
cuối thu năm đó, giời se se lạnh, cả làng đang say sưa ngon giấc. Cái đói cồn
cào ruột gan làm bà không ngủ được. Lê bước chân nặng nề ra gốc cây quéo đầu
làng để xin ai đó đi chợ sớm một củ khoai, hai củ sắn lót dạ qua ngày. Kia rồi
có một người phụ nữ từ Cau sang, trên vai lỉnh kỉnh gánh hàng đi chợ. Bụng mừng
thầm bà liền đứng dậy. Thật bất ngờ người phụ nữ kia tưởng bà là ma, quýnh
quáng bỏ chạy làm cả hai thúng hàng rơi lăn lóc trên đường. Chị ta vừa chạy vừa
gào khóc vì sợ hãi. Dù sức yếu bà Tý Ngan vẫn chạy đuổi theo, vừa chạy bà vừa
hét to. Con ơi đừng sợ. Ta là già Tý Ngan
đây. Quay lại đi rơi hết đồ rồi. Người
phụ nữ vẫn hãi chạy. Bà phải dùng hết sức bình sinh đuổi theo và ôm ghì lấy chị
ta, chị ta mới dừng lại. Nhận ra bà, chị ta nói:
-
Lần sau già đừng ra ngồi đầu làng quá
sớm. Con tưởng là ma, sợ bỏ chạy. May mà hai thúng hàng chưa rơi xuống ao. Nếu
không mẹ chồng con sẽ xé xác con ra. Thôi con biếu già hai quả trứng gà, ba củ
khoai lang. Già đừng ra ngồi đầu làng nữa nhé. Con sợ lắm!
Nghe
xong bà Tý Ngan liền nói. Đừng làm vậy
con.! Không lẽ ta là kẻ cướp giật sao.? Bà cương quyết không nhận và trở
lại gốc quéo ngồi thẫn thờ, nét mặt xen lẫn ân hận ….
Nhớ
được lối vào nhà bà Tý Ngan, người đàn bà đi chợ liền mang vào để đầu hè một ít
thức ăn cho bà.
Tháng
củ mật, năm 1949, đêm đó giời tối om đen ngòm, giơ bàn tay ra trước mặt cũng
không nhìn thấy bàn tay. Giữa khuya, cụ Bề bỏ bê việc soi cua bắt cá, cầm chiếc
đèn bão, tất tưởi chạy đến nhà bà gọi giật giọng:
-
Bà Tý Ngan...ơi! Bà Tý Ngan…à! Thằng Khắt
xóm Từ nó đang đánh vợ. Chánh Roong dọa bắt nó, nó cũng không sợ. Bà lại cứu vợ
nó đi!
Không một chút
đắn đo do dự, bà vồ con dao để đầu giường. Con dao này nhà cụ Lụa dùng để băm đồ
lợn, đã cùn, cho bà để dùng trừ khử ma tà. Giờ đây thật hữu dụng.
Bà cầm dao chạy
một mạch ra đầu Rộc, rẽ ngang sang xóm Từ. Vừa đi bà vừa quát :
-
Thằng Khắt! Mày uống rượu say, mày đánh vợ mày, đêm nay mày chết với tao… mày
chết với tao…
Hỡi ôi! Đêm đó,
thật là một đêm định mệnh với bà. Thằng Khắt không chết. Sau khi đánh vợ nó lăn
đùng ra ổ rơm ngủ say như chết. Còn bà Tý Ngan đã mãi mãi biến mất trên cõi
đời.Từ đêm đó trở đi, dân làng Vẽo tinh không một ai còn được nhìn thấy mặt mũi
bà Tý Ngan.
Là người ăn to
nói lớn, thân hình hộ pháp, tính tình cương trực, luôn bênh vực người ngay, cụ
Dậu mạnh mẽ như lúc cầm lệnh chỉ huy tang trường, thộp ngực thằng Khắt, quát
tháo :
- Mày giết bà Tý Ngan vất xác ở đâu? Nói ngay!
Để chúng tao còn làm ma cho bà ấy. Dân làng
hỏi tội mày sau.
Khoảng hơn chục
người đứng sau lưng cụ Dậu lao xao nói:
-
Dạ cụ! cụ cứ làm cho ra ngô ra khoai chúng con sẽ làm theo lời cụ.
Khắt thản nhiên
trả lời:
- Khổ thân cháu! Trước khi qua đời thầy u cháu
đều dặn, nếu không có cụ Chuyển và bà Tý Ngan đổ cháo phát chẩn thì cả nhà cháu
chết tiệt rồi. Đã ba lần rước bà ấy về ở
mà bà không chịu. Trả phước chưa xong sao cháu lại làm họa cho bà Tý Ngan được.
Sao giờ đổ vạ cho cháu?
Đã ba ngày rồi
mà mặt con vợ Khắt vẫn chưa hết sưng, lưng vẫn còn bầm tím, ấy thế mà đứng ra
bênh chồng chằm chặp:
- Khốn nạn! Nhà cháu ở đây ắng lắm. Cả
năm chả ma nào tới. Bà Tý Ngan đến thì vui
cửa vui nhà, sao nhà cháu lại đuổi đi được. Đấy! Vẫn còn miếng phèo luộc
phần bà ấy mà chẳng thấy gì sất!
Ba tháng sau,
giữa tiết xuân đà ấm áp, mưa xuân phơi phới bay, hoa xoan rụng trắng đường
làng, khăn gói quả mướp, vợ bíu con đìu, Khắt dẫn vợ con rời làng Vẽo ra đi.
Nghe nói ra ngoài Uông Bí làm nghề cửu vạn. Vừa đi vừa phân trần với dân
làng rằng:
- Sợ
lắm các bác ạ! Những đêm trái gió trở giời bà Tý Ngan vẫn giở về bóp cổ em và
dọa giết em nên vợ chồng em phải bỏ làng đi xa …
Con vợ Khắt,
nước mắt ngập tràn mi, khóc như ri vỡ tổ:
-
Ăn ở với dân
làng, có điều gì không nên không phải, các bác thứ lỗi cho vợ chồng em nhá!
Chào các bác em đi!...
*****

Chú thích:
* Bà Tý Ngan tên
thật là Tý Ngan. Sinh năm 1900, 10 giờ sáng tháng mưa ngâu. Không rõ năm chết.
Năm mất tích 1949
* Trở thành giai
thoại của làng Vẽo, bà Tý Ngan đã góp phần vào nền văn học toán của tỉnh Thái
Bình. Trong sách VĂN HỌC DÂN GIAN THÁI BÌNH – NXB THÁI BÌNH xuất bản năm 1997
ghi vẻn vẹn ba dòng về bà: bà Tý Ngan người làng Vẽo do ăn rất khỏe nên có phép
tính như sau: 9 bát cơm, lùm
lùm bát cháy, 3 bát mày mạy, 1 bát ngô rang. Hỏi bà Tý Ngan ăn được mấy bát?
*
Bát mày mạy là phần cháy ở phía dưới vung nồi cơm. Khi thổi cơm người nông dân
làng Vẽo thường xúc than nóng đổ lên vung nồi cơm và vùi xuống đống than. Phần
cơm quá chín ở đáy nồi gọi là cháy, ở mặt nồi gọi là mày mạy.
*
Gọi là xóm Đó bởi xóm này, tháng 3 ngày 8 dân cả xóm chỉ biết đan đó, đơm đó,
đổ đó … tuy không trở thành làng nghề nhưng cái tên xóm Đó gắn bó từ đó.
*
Bà Tý Ngan hơn cụ Tầng, cụ Phiên, cụ Vạn khoảng 10 tuổi. Hiện nay những người
đã từng nói chuyện với bà Tý Ngan chỉ còn bốn cụ lão làng: cụ Viên, cụ Khoa
(xóm Tải), cụ Sen, cụ Ngải (xóm
Đống). Vì ở quá xa làng Vẽo, không thể tiếp cận và hỏi han được gì nên nhờ
bà con dân làng làm thay tác giả để bổ khuyết.
*
Từ độ ấy đến nay Khắt chưa một lần về lại xóm Từ . Ra Uông Bí, Khắt chơi bời
với bọn du đãng mà ngày nay gọi là xã hội đen. Trong một lần chia tiền bảo kê
không sòng phẳng, Khắt đánh một tên thừa sống thiếu chết. Trả thù, gã kia lợi
dụng lúc Khắt ngủ đã cắt gót chân phải của Khắt, chân đi tập tễnh nên Khắt không
dám về làng. Chỉ còn chân trụ, bị liệt chân đá, công thủ đều bất lợi Khắt phải
giã từ băng đảng cô hồn, ăn năn hối cải trở lại cuộc sống đạm bạc như ngày nào.
Cuối năm 1979, dân làng Vẽo ra quân xuống đồng san ủi toàn bộ xóm Từ thành cánh
đồng giồng lúa, giồng hoa. Người bỏ làng ra đi biệt tích như Khắt là khá nhiều.
Đáng kể nhất là chuyến đi bão táp cuộc đời năm 1941 của Bàng Thị Xuyên khi đó
trạc 16, 17 tuổi. Đi bộ từ làng sang Nam Định, trốn vé lên tàu chạy thẳng vào
Sài Gòn mất 9 ngày 9 đêm. Sau đó làm công nhân cao su Phú Riềng và được giác
ngộ cách mạng. Năm 1944 anh Xuyên mang mật thư của Lê Đức Anh để liên lạc với
xứ ủy Bắc Kỳ nhưng phải dừng lại tại Nghệ An vì mất liên lạc. Sau này ở lại lấy
vợ là người Nghệ An sinh được bốn người con trai, có tám cháu nội cũng đều là
trai và lập hẳn một gia tộc mới họ Nguyễn Văn – làng Vẽo tại Nghĩa Đàn, Nghệ An.
Năm 1943, giặc Pháp bắt hai anh em ruột Bàng, Thị đưa xuống tàu chạy sang đảo
Guyane (gọi tắt là đảo Guy) cách bờ biển Brazil 30 hải lý (1 hải lý = 1853m).
Trước đó ba năm, cùng bị đầy lên đảo Guy có ông Lương Duyên Hồi quê Hồng Việt. Vì
biết tiếng Pháp, ông Hồi đã khôn ranh trà trộn vào đám hỗn quân hỗn quan, trốn
thoát về được Việt Nam, tham gia cướp chính quyền trong Cách mạng tháng Tám, sau
này làm chủ tịch huyện Tiên Hưng. Bàng, Thị ở lại đảo, lấy vợ là thổ dân châu Phi da đen và đã sinh con đẻ cái trên đảo (tin
này do báo Tuổi Trẻ - TP.Hồ Chí Minh cung cấp). Như vậy hậu duệ họ Phạm Văn –
làng Vẽo đã có mặt ở quần đảo xa xôi tận bên kia Thái Bình Dương. Con cháu dân
làng Vẽo đã là cư dân của cường quốc bóng đá Brazil, quốc gia có những danh thủ
nổi tiếng như Pêlê, ChaĐiĐi, Ronando …. Con cái ông Bàng, ông Thị bằng tuổi ông
Lân (xóm Việt Hùng) và gọi ông Lân là anh em thúc bá.
Cũng
phải kể thêm chuyến ra đi năm 1925 của ông Phạm Đồng Tíu (đằng cổng Tải). Ông
Tíu là em ruột ông Phạm Đồng Hiến. Thương em, người chị dâu, tức là vợ ông Hiến
dành cho ông Tíu một bát cơm để lót dạ đi bộ sang Nam Định, theo chuyến mộ phu
Sài Gòong. Thương chị dâu bầu mang dạ chửa, Tíu lại giấu bát cơm đó, trả lại nồi
cơm để chị ăn, còn sinh con đẻ cái. Tíu vào Sài Gòong rồi biệt tích. Năm 2009,
trong cuộc họp toàn thể dòng họ Phạm cả nước tại TP.HCM, rất ngạc nhiên, cụ
Phạm Đồng Huy lại nghe MC (người dẫn chương trình) xướng tên Phạm Đồng Vinh lên phát biểu. Vì quá đông
người lại trong đại tiệc người nâng lên, kẻ đặt xuống mà cụ Huy không tìm ra
được anh Phạm Đồng Vinh mà cụ ngờ ngợ là con ông Phạm Đồng Tíu.
*
Tuyên ngôn Độc lập 02-09-1945 khẳng định nạn đói Ất Dậu năm 1945 dân Bắc chết
hơn hai triệu người, riêng Thái Bình chiếm 33%. Làng Vẽo cũng có khá nhiều
người chết nhưng xóm Đông, một xóm nghèo nhất làng lại chết ít nhất bởi có cụ
Chuyển và bà Tý Ngan ngày ngày đi phát chẩn, cứu được rất nhiều người khỏi chết
đói. Nhớ ơn bà, sau này có người đón bà về nhà ở nhưng bà nhất mực chối từ. Cụ
Hiến họ Phạm Đồng và bà Huệ con gái phó Thịu cũng đi phát chẩn và cứu được
nhiều người ở xóm Tải. Mùa giáp hạt khi nạn đói trở thành đại trà thì cả 7 địa
chủ làng Vẽo đều nấu cháo và bánh đúc phát chẩn tại sân đình. Ông Thê, sinh năm
1940 là một đứa cháu ruột được cụ Bề dưỡng dục vì mồ côi cha mẹ từ nhỏ, năm nay
đã ngoài 70 tuổi, ông kể rằng: Năm 1945 là năm đại họa với dân làng Vẽo. Chết
no 1, chết đói 10, chết dịch 20. Sau khi nạn đói đi qua, do vỡ đê dân làng lại
chịu cảnh ngập lụt. Hết ngập lụt, colly(độ bẩn) từ phân chuồng lợn, phân chuồng
gio ra nước, nước đó lại dùng tắm rửa, ăn uống, giặt giũ nên dân làng bị dịch
tả gần như vô phương cứu chữa… Cùng một lúc, thợ kèn, thợ trống phường bát âm
phải cử hành tang lễ làm ma cho hàng chục người. Hàng mấy chục người chết được
bó chiếu và dân làng khênh đi, rồng rắn theo sau, dài lê thê, đầu làng cuối
xóm, thân nhân đi đưa tang không còn nước mắt để khóc. Không còn gỗ đóng quan
tài, dân làng chỉ biết khâm liệm bằng bó chiếu. Trước khi nạn đói Ất Dậu phát
sinh, tức là đầu năm 1945, dân làng Vẽo có 500 người, đầu năm 1946 đếm đi đếm
lại làng chỉ còn 219 người. Xét ra, làng Vẽo là làng chết đói ít nhất trong cả
tổng Cao Mỗ. Công lao đó phần lớn thuộc về 7 ông địa chủ làng Vẽo. Nổi bật nhất
là cha con ông Xuyến, ông Duyện.
*
Theo lão nông tri điền, chỉ lợn sề tức là con lợn cái đã sinh con mới có phèo,
đó là cái cuống ruột có chức năng dẫn chất dinh dưỡng từ cơ thể lợn mẹ để nuôi
bào thai.... Khi mổ lợn sề, đồ tể lành nghề mới có khả năng lấy được phèo còn
gọi là bắt phèo và chỉ trần qua nước sôi là ăn được, cho phép thưởng thức trọn
vẹn chất dinh dưỡng vốn có được tích tụ theo quy luật sinh tồn, đồng hóa dị hóa
của lục phủ ngũ tạng đào thải, tiến hóa, hoàn thiện vô biên. Nên phèo luộc được
coi là miếng ngon nhất trong toàn bộ cỗ lòng lợn, là món ăn tinh túy, hiếm hoi
trong một đời người… Rất nhiều người là dân nghèo thành thị suốt đời vẫn chưa
một lần được ăn phèo luộc. Miếng phèo luộc mà vợ chồng Khắt giành cho bà Tý
Ngan chứng tỏ Khắt là kẻ sành ăn và cũng rất quý bà Tý Ngan…
*
Khắt ra Uông Bí làm nghề đội than, bốc vác hàng, còn gọi là cửu vạn cũng giống
như Sa Tăng, một cửu vạn cao cấp, trên vai đôi quang gánh lỉnh kỉnh đồ đạc cùng
với Tôn Ngộ Không, Chư Bát Giới tháp tùng Đường Tăng đường trường vạn lý, Tây
Trúc thỉnh kinh.
*
Sau khi bỏ làng ra đi, căn nhà Khắt vắng tanh vắng ngắt. Vườn cà ra hoa sai quả,
quả chín rụng đỏ vàng mà không ai dám hái. Không một ai dám bước tới căn nhà
hoang vắng đó kể cả giữa ban ngày ban mặt. Theo cụ Lịch, một người thợ đan gầu
giai có uy tín cả tổng Cao Mỗ, một người hàng xóm của Khắt thì bất kì ai chỉ
cần bước chân đến cổng nhà Khắt tự nhiên tóc tai, lông tay lông chân dựng đứng
như lông nhím, dựng ngược như lông lợn khi lợn nhìn thấy rắn độc. Người duy
nhất dám bước vào nhà Khắt kể cả giữa đêm khuya là cụ Tự Lược, một thầy cúng lừng
danh khắp vùng mà ngày nay gọi là nhà ngoại cảm. Theo lời cụ Tầng, cụ Vạn thì
cụ Tự Lược giỏi giang đến độ gọi chim, chim bay đậu xuống vai, gọi rắn rắn chui
ra khỏi hang, gọi ma ma chập chờn ẩn hiện. Một lần thương vợ tát nước bằng gầu
sòng, tát mãi không đầy. Cụ bảo vợ về nhà và điều âm binh lên tát thay và ruộng
đã đầy nước trong chốc lát. Có lần gọi hồn người chết mà người này đang được bốc
mộ cải táng, cụ đã làm cho cái đầu lâu rung rinh và cười khanh khách trong quan
tài tiểu sành. Nếu đó là sự thật thì nhà ngoại cảm nổi tiếng Phan Thị Bích Hằng
cũng phải ngàn lần bái phục. Khả năng ngoại cảm của cụ Tự Lược chỉ truyền đến
đời cụ Truật mà đến đời F2 (thế hệ cháu) thì thất truyền. Giữa khuya ngày giỗ
đầu bà Tý Ngan, đêm ông Táo về giời năm 1950, cụ Tự Lược vào nhà Khắt gọi hồn
bà. Gọi mãi không nghe. Hỏi hoài không đáp. Cúng riết không về. Cụ Thạch, cụ
Thư bảo rằng chứng tỏ bà Tý Ngan chưa chết. Nếu chết mà gọi như gọi đò vẫn
không về có lẽ bà giận hờn điều gì đó với dân làng. Giả chăng, vong hồn bà là
vong độc. Độc đến nỗi bậc thầy phong thủy như cụ Tự Lược mà vẫn bất lực. Theo
lời cụ Khiết ( xóm Đông) thì ngoài cụ Tự Lược ra còn có cụ Thược ( đằng cổng
quán) có tài điều khiển âm binh thật thần kì. Một lần bão giật đổ cây cau nhà
cụ. Cụ gọi âm binh lên dựng cây cau đứng lại như cũ. Theo lời cụ Thạch thì có
lần giữa cụ Thược và cụ Tự Lược có cuộc tỷ thí tài năng ngoại cảm gọi hồn.
Người ta đưa cho hai cụ một bát tô đựng nước lã để giữa sân nhà cụ Phạm Đồng
Liêng, loáng một cái cụ Thược bằng thuật chiêu của mình đã biến tô nước lã có
bèo hoa dâu. Đáp lại, bằng độc chiêu kỳ bí của mình cụ Tự Lược gọi được đàn cá Thồng Rồng xuất hiện đớp hết
bèo hoa dâu trong con mắt kinh ngạc của dân làng… ông binh Nai, ông binh Lợi là
lính khố xanh cùng đứng xem hoảng hồn còn làm rơi khẩu súng Mutton trên nền sân
gạch. Tiếng động phát ra làm cho đàn cá Thồng Rồng biến mất trong nháy mắt.
*
Đám giỗ làng Cau mà bà Tý Ngan được mời sang ăn là gia đình nhà ông Sửu. Tan
tiệc, anh em ông Sửu, Kiện khi đó là những đứa trẻ 10 tuổi vì sợ ma nên chỉ đưa
bà ra khỏi làng Cau và hãi sợ bỏ chạy về để bà vừa say rượu vừa mò mẫm về nhà.
*
Vì mắc bệnh vảy nến, với những hoa văn kì dị trên da, một căn bệnh có khả năng
lây truyền nên không được tuyển vào quân đội, điểu này làm anh Điếm mang một
nỗi hận đến lúc chết.
*
Củ khoai luộc mà cụ Bề cho bà Tý Ngan là những củ khoai lang, khoai sọ. Chỉ đến
năm 1974, sau khi cụ Bề mất hơn mười năm, dân làng Vẽo mới biết đến củ khoai Tây,
được nhập về từ Pháp sau chuyến công du của nhà khoa học Lương Định Của.
*
Một ngày cuối Thu đầu Đông năm 1940, người ta thấy một gã trai 16, 17 tuổi nét
mặt lì lợm, ánh mắt thẫn thờ, mặc độc một cái quần đùi bất ngờ xuất hiện ở sân
đình làng Vẽo. Hắn đến từ làng Gòi. Tối qua lợi dụng mùa nước cạn, hắn bơi qua
sông Trà Lý. Vì cái tội hỏi không nói, hắn bị giai làng Cống cho một trận nhừ
tử. Giữa khuya hắn nhìn thấy mái đình thấp thoáng liền ghé lại xin ngủ qua đêm.
Sáng hôm sau một người đánh thức hắn dậy. Đó là cụ Dậu khi ấy cụ là một chàng
thanh niên khoảng 24, 25 tuổi. Cũng vì gã lì lợm mà cụ liền ra tay cho gã một
cú đấm trời giáng, hoa hết cả mắt. Tay gã rơi ra cái răng bừa, một hung khí bất
ly thân của hắn. Từ đó gã được dân làng gán cho cái tên Đinh Bừa. Sau này với
lối sống bất cần đời, dân làng lại gọi gã là Đinh Bứa. Tuần đầu tiên nhập làng,
gã được cụ Bề, cụ Dậu cho ăn ngày hai bữa. Sau đó cụ Dậu nói rằng, nếu mày bán
phân trâu, tao mua cho mày 5 xèng một gánh. Từ đó gã có công ăn việc làm. Quanh
năm suốt tháng trải chiếu nằm vật vờ nay thì sân đình mai lại dưới mái chùa,
hôm thì dưới gốc quéo. Bứa làm nghề hót phân trâu bằng hai cái xương trâu cùng
đôi sọt. Bán phân trâu ngày nào lấy tiền uống rượu hết ngày ấy. Năm đấu tố cải
cách ruộng đất, Bứa đã to mồm chửi cha con địa chủ xóm Chùa rằng:
Đời mày không sướng bằng tao. Rượu tao
uống cả chai. Lòng lợn tao ăn cả khúc. Tiết canh tao ăn cả bát.
(Câu
nói trên đã được lược bớt những từ ngữ tục tĩu, chợ búa theo kiểu ngôn ngữ Đan
Mạch) Xót xa thay ông địa chủ mà gã to mồm chửi lại rất nhân từ, quần xắn móng
lợn, cày sâu cuốc bẫm, đầu tắt mặt tối, đi sớm về khuya, quần quật như một lão
nông tri điền, đã từng phát chẩn năm Ất Dậu, và cứu được nhiều người khỏi nạn đói. Công bằng mà nói khi đó dân làng chỉ
muốn đấm vào mặt gã và bảo vệ ông địa chủ.
Nhưng
nhìn nét mặt trang nghiêm của cán bộ cải cách, lại đang là thời của thánh thần nên không ai dám cười. Khi cán bộ đi rồi, dân
làng bò lăn bò càng ra mà cười bởi câu nói đầy nghộ nghê của gã. Mùa Đông năm
1959, gã biến mất khỏi làng. Dân làng không ai biết gã đi đâu. Hình ảnh gã Đính
Bứa, một người ngụ cư chính cống ngày
nào, có dáng dấp như Chí Phèo đến nay hầu như phai nhạt không ai còn một lần
nhắc tới. Theo lời cụ Hoán, thì tối hôm trước cụ Dậu bảo Bứa rằng, phải vào hợp
tác, làm ăn tập thể, đánh kẻng đi làm, được chia công điểm, điểm quy ra thóc,
mai mày ra đồng, theo tao đi cày, xã cho mày đất, mày phải lấy vợ, sinh con đẻ
cái... Do lâu nay sống tự do không ai quản, lại hay gây gổ chửi bới dân làng,
biết không thể hòa đồng với mọi người, nghe xong quá khiếp sợ, nên rạng sáng hôm sau Đinh
Bứa bỏ làng ra đi. Gã không mang theo gì. Mấy hôm sau trẻ trâu đốt bộ đồ nghề
của gã ở đầu Rộc. Mùi khét lẹt bay ra, hành hạ dân làng suốt mấy tiếng đồng hồ.
Cho rằng, làng Gòi là quê hương bản quán mà hắn không trụ được, làng Vẽo hiền
lành mà gã cũng không ở được thì chỉ có chết rấp đầu đường xó chợ mà thôi nên cụ
Hoán lấy cái đinh bừa mà gã vứt lại, đóng vào gốc cây quéo để nếu chết rấp ở
đâu thì gã lấy lối đi về.
Cụ
Ước đặt mấy câu vè: Ve vẻ vè ve, cái vè thằng Bứa, răng mày đầy bựa, uống rượu bừa phứa, gân
cổ bắp cày, chửi nhau trầy bửa, mặt mày quả dứa, nhìn mà nôn mửa, chết rấp
ruộng bừa…ve vẻ vè ve…
Mấy
tháng sau dân làng Đống Năm nhìn thấy một người đàn ông treo cổ tự tử chết trên
cành cây đa ngoài cánh đồng. Không ai biết gã từ đâu tới. Mãi sau mới có một
người nhận ra gã, đó là bà Bong người làng Vẽo làm dâu tại Đống Năm. Cuối cùng
Bứa cũng được chôn cất tử tế, theo đạo lý nghĩa tử là nghĩa tận.
*
Trước Cách mạng Tháng 8, làng Vẽo có 7 địa chủ trong đó xóm Chùa 4 và xóm Tải
3. Xóm Đông và xóm Đống chỉ có trung nông. Nổi tiếng nhất là địa chủ Phạm Văn Thịu,
có nhiều ruộng đất nhất, nhà cửa khang trang nhất, đó là căn nhà hai tầng đầu
tiên của làng, có cả gara đựng xe kéo tay, trong nhà có quạt tay kéo. Giàu là
vậy, nhưng lại sống rất nhân từ với dân làng. Ông làm đến chức phó lý và qua
đời năm 1935. Ông có người con gái xinh đẹp tên là Phạm Thị Huệ. Khi còn là một
thiếu nữ 16 tuổi, được dân làng gọi là tiểu thư. Huệ đã từng phi bạch tuấn mã
nước kiệu điệu đà kiêu sa chạy từ làng Vẽo lên làng Sổ, qua xóm Từ về xóm Tải,
mái tóc nàng bay phất phơ trong gió chiều càng làm cho khuôn mặt vốn đã xinh
đẹp trở nên kiêu sa, làm trái tim bao giai làng đêm ngày thổn thức. Tháng 8 năm
1945, nàng cầm cờ đỏ sao vàng chạy ra đình, dẫn dắt dân làng giành chính quyền.
Năm 1950 thoát ly vào thành hoạt động cách mạng nhưng lại phải lòng ông giáo
Nhu theo đạo Chúa, người làng Sen Sinh Ra Sồng cách làng Vẽo không xa. Năm 1954
tưởng về làng Sồng Sinh Ra Sen để định cư thì lại di cư vào Nam. Năm 1975 di
tản sang Mỹ. Năm 2012, cả hai vợ chồng bà đều đã ngoài 80, khá khỏe mạnh sống
tại Thung lũng Hoa Vàng, một thành phố miền Viễn Tây (Hoa Kỳ). Từ 1954 đến nay
bà chưa một lần về thăm làng Vẽo. Đời bà như một trang tiểu thuyết.
*
Hình ảnh ngựa trắng – bạch tuấn mã phi nước kiệu điệu đà kiêu sa nhưng lại cung
kính khoan thai khi đi qua cổng Đông, cổng Đống, cổng Chùa, cổng Quán ngày nào,
dân làng lại được gặp lại vào những năm 1950 đến 1953 khi cụ Thông và cụ Nẫm những
giai làng trẻ trung khi ấy phi ngựa trắng chạy quanh làng nhưng với dáng vẻ của
một chiến binh quả cảm nét mặt phong sương, sạm gió thật đáng mặt trai hùng,
hào hiệp, lẫm liệt oai phong…Nếu có những thước phim quay được, nay xem lại mới
thấy làng Vẽo ta rêu phong cổ kính đẹp như tranh họa đồ, sánh được với làng cổ
Đường Lâm…
*
Sau khi cụ Liễu họ Đào rời làng lên Thái Nguyên, căn nhà của cụ bị bỏ trống đã
được chủ tịch Bào trưng dụng làm nhà sơ tán mẫu giáo để tránh máy bay địch.
Nhưng cuối năm 1972 khi trên đường bay vào Hà Nội thả bom, hai tên phi công Mỹ
qua kính phóng đại chúng cho rằng những đứa trẻ đang đội mũ rơm theo sự chỉ huy
của cô giáo Chi, chạy ra hầm trú ẩn như là những chiến binh Việt Cộng nên chúng
liền thả bom. Rất may gió đưa canh đa, gió đẩy cành đa, nên cũng đẩy hai quả bom
ra xa làng Vẽo và đã rơi trúng góc đồng Sầm, giáp với làng Sổ. Cả lớp mẫu giáo
đều an toàn. Những đứa trẻ đội mũ rơm thoát chết ngày ấy, nay đã là thượng tá
Trượng( trung đoàn tên lửa thủ đô), thượng tá Huynh( trung đoàn tác chiến 375 -
Ninh Bình), Đào Xuân Trường ( chi cục trưởng thuế Ba Chẽ ), thượng tá Đài( quận
phó công an Đồ Sơn), thiếu tá Vinh( cảnh sát Châu Đốc) Nguyễn Thanh Tuyền (chánh
văn phòng huyện ủy Văn Chấn), Hoàng Hoa Thám (chuyên gia Viện khảo cổ quốc gia -
Hà Nội) và nhiều người thành danh khác….
*
Năm 2010 tờ báo Du Lịch Paris công bố 10 món ăn kinh tởm nhất thế
giới, đó là: Tiết canh, bộ
đầu, bộ lòng, bộ móng, vịt lộn, thịt cầy, thịt chuột, mắm tôm, tằm nhộng, dế
mèn. Những món ăn kinh tởm này đều là món ăn Việt Nam, nhưng lại không có giun xào đỉa luộc cóc nấu riêu như bà Tý Ngan đã từng ăn. Người dân
Nông Cống luôn coi món đỉa rang là món ngon khoái khẩu nhất trên đời, nhất là
được uống cùng với rượu nút lá chuối. Người Thái Lan đã từng ăn cào cào, châu
chấu, dế mèn, ve sầu và rất nhiều loại côn trùng khác…. Nhưng nếu sau này Thái
Lan ăn đỉa rang thì chứng tỏ bà Tý Ngan là người đi trước thời đại.
*
Rượu nếp quýt hoa vàng Quỳnh Hoa là loại rượu hảo hạng, vang vọng khắp bốn bể
năm châu, được sản xuất bởi những người nông dân chân lấm tay bùn, chín nắng
mười sương chắt chiu chọn lọc kỹ càng từng hạt giống nếp quýt hoa vàng canh tác
trên những cánh đồng bờ xôi ruộng mật tại làng Quỳnh Hoa, xã Quỳnh Hoa, Quỳnh
Phụ,Thái Bình. Sau khi kí Hiệp định Paris 1973, Kitxinhgiơ sang thăm Hà Nội và
được Lê Đức Thọ đón tiếp trọng thị bằng rượu nút lá chuối Quỳnh Hoa mà thời đó
gọi là rượu cuốc lủi. Bởi tình trạng khan hiếm lương thực phải huy động cho chiến
trường nên người nấu rượu bị coi là tội phạm, tội nấu rượu lậu. Khi bị du kích
đuổi bắt thì người nấu rượu cao chạy xa
bay như cuốc lủi, mất hút như con mẹ hàng lươn nên được gọi là rượu cuốc lủi.
Ngất ngây với hương vị đậm đà, tiền cay hậu ngọt mà trong đời chưa được uống
bao giờ, mặc dù đã được Lê Đức Thọ biếu tặng 2 chai nhưng Kitxinhgiơ lại xin
thêm 4 chai nữa để về tặng cho bạn bè và cũng được phía chủ nhà thịnh tình đáp
ứng. Trong đời, một lần ít ỏi, bà Tý Ngan cũng được dân làng Cau thết đãi loại
rượu Quỳnh Hoa tuyệt vời này.
* Dân làng Vẽo rất tự hào về cụ Đoàn Dậu (gọi
là Đoàn Dậu vì cụ có chức vụ tương tự như dân phòng ngày nay). Cụ là một đô vật
có hạng ở tổng Cao Mỗ. Năm 1939, tại đình làng cụ giành chiến thắng trước ba đô
vật nổi tiếng đến từ làng Giành. Dân làng Giành phải làm kiệu vàng rước cụ lên
kiệu và khênh kiệu từ đình ra cổng Đông. Nhưng chỉ đi được mươi thước, vì không
quen cảnh xa hoa, áo đỏ lọng vàng nên cụ lại nhảy xuống đi bộ cùng giai làng
Giành đang rước kiệu, làm cho dân hai làng rất thán phục, vỗ tay cười vui suốt
cả hai bên đường làng. Tài đánh trống lệnh của cụ thì không ai sánh bằng. Tiếng
lệnh mà cụ đánh ngân nga, vang vọng, mạnh mẽ, dứt khoát. Thê lương, sầu não lúc
động quan. Réo rắt, hối hả khi hạ huyệt. Làm người đưa tang cảm nhận thần chết đang
cướp quan tài, giằng co với tang chủ đang vớt vát giây phút cuối cùng cho người
quá cố. Hiện nay không ai đánh lệnh tuyệt vời như tiếng lệnh của cụ Đoàn Dậu. Năm
1976, một lần cụ Hoán thách đố cụ Đoàn Dậu ăn hết quả mít khoảng 10 cân, nếu ăn
hết cụ Hoán phải chịu thêm 10 đồng nữa. Vốn là người thông minh, cụ Đoàn Dậu bổ
quả mít, lọc múi bỏ hạt bỏ xơ nên trọng lượng chỉ còn khoảng 3 cân. Cụ ép thành
nước, uống hết nước rồi ăn cái. Và cụ Hoán phải giả 10 đồng, nhưng cụ Đoàn Dậu
lại lấy số tiền đó mua quả mít khác, chia cho bà con lối xóm cùng ăn.
* Làng Vẽo có nhiều tấm gương để cho lớp trẻ
phải học tập. Trong số đó có bà Sót, một người cô phụ, có lòng tự trọng cao và
đức tính cần cù tiết kiệm hiếm có. Có
lần bà đánh mất cái liềm trị giá 5 ngàn đồng. Ngày hôm sau bà tự phạt bản thân
mình là không cho mình ăn gì, để bù lại 5 ngàn đồng đã mất. Bà tích lũy được
mấy lượng vàng, nhưng khi về già, thấy con cháu hầu hạ quá vất vả bà liền tuyệt
thực cho đến chết để tránh phiền hà. Khác với nhiều người đòi ghi tên mình thì
bà phản ứng quyết liệt đòi gạch tên mình ra khỏi danh sách xóa đói giảm nghèo
của làng, mà chỉ thừa nhận mình là hộ độc thân. Một lần bà bảo, tối qua sang nhà Chè xem ti vi, cái nhà
chị gì đó đẹp đáo để, lại bảo chống tham nhũng là rất khó khăn. Có gì mà khó. Cứ
học con thạch sùng là hết tham nhũng. Mấy lần thương con thạch sùng, tôi bắt
gián để góc nhà cho chúng ăn mà chúng chẳng ăn gì sất. Con thạch sùng chỉ ăn
con gián mà nó bắt được, không bao giờ nó ăn cái không phải của mình. Thiết
nghĩ cơ quan chỉ đạo phòng chống tham nhũng nên nghe lời bà Sót, nên vẽ hình con
thạch sùng làm logo ( hình ảnh biểu tượng ) cho cơ quan mình.
*
Dân làng Cau Vẽo vẫn nhớ mãi cụ Đàm và cụ Ngận nổi tiếng giàu lòng nhân hậu và bao
dung. Mặc dù đã 60 tuổi, vẫn phải gù lưng đạp máy, một cái máy may cũ kĩ cọc
cạch nhưng cụ Đàm là người rất lễ phép. Gặp lũ trẻ chỉ 9, 10 tuổi nhưng cụ vẫn
khoanh 2 tay cúi đầu chào cung kính. Lúc đầu lũ trẻ tưởng rằng cụ làm mẫu để
chúng học theo. Không ngờ cụ cũng khoanh tay chào y như vậy khi gặp bất kì ai
trong làng. Sự lễ phép này thật đáng nể mà người Nhật cũng phải gọi cụ bằng cụ.
Khác với cụ Đàm, cụ Ngận gặp trẻ thì xoa đầu, gặp già thì cung kính. Cụ rất
thương người nghèo. Nhiều lần cụ đứng ra vay lúa vay tiền cho nhà nghèo trong
làng. Trong làng có rất nhiều tráng binh tử trận nơi chiến trường. Cụ đều đến
động viên an ủi thân nhân. Người ta còn thấy cụ khóc như chính cụ là cha mẹ
liệt sĩ. Nhưng ngày anh Ngỡi con trai thứ nhì của cụ hi sinh tại chiến trường
Miền Nam và khi dân làng đến chia buồn động viên cụ thì cụ lại quay ra động
viên lại dân làng: Buồn là cháu Ngỡi nhà
tôi đã chết, nhưng mừng là cháu đã chết vì Tổ Quốc. Đây chính là cội nguồn
sức sống của dân tộc ta, lý giải được sự trường tồn đầy nghiệt ngã trong hàng
ngàn năm chống giặc ngoại xâm. Nếu chính phủ ta có chính sách về người cha Việt
Nam anh hùng, thì cụ Ngận xứng đáng là người đầu tiên của làng được phong tặng
danh hiệu này. Lối sống bo bo, ích kỉ hoàn toàn xa lạ với tấm lòng lương thiện
của cụ. Ngày cụ đi xa, rất nhiều người khóc đưa cụ ra đồng.
*
Bà Hậu Bòn nổi tiếng là giàu có nhưng tiết kiệm, có giai thoại rằng, trên đường
đi chợ vì bí tiểu bà đã đái vào hòn đất cày, cho vào thúng đem về đắp vào gốc
cây chuối trong vườn nhà.
*
Bà Hàm, bà Chu, bà Khuy là người Việt cổ chính cống bởi ngón chân cái chõe ra bên
ngoài và nếu khép hai bàn chân sát nhau thì hai ngón cái giao chéo nhau còn gọi
là giao chi tức dân tộc Giao Chỉ.
*
Cụ Thạch có bí quyết gia truyền chữa bệnh hóc xương gà. Trước khi qua đời cụ
Thạch truyền cho cụ Miện. Hiện nay cụ Viễn (xóm Việt Hùng) lại được kế thừa từ
cụ Miện.
*
Tiền bạc Đông Dương thời Bảo Đại bao gồm: đồng,
hào, xu, chinh, xèng. Đến thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiền bạc cụ Hồ chỉ
bao gồm: đồng, hào, xu. Sau khi thống nhất nước nhà, tiền Việt Nam chỉ còn duy
nhất là VN đồng. Phát hành tiền bạc phải theo nguyên lý 1,2,5,10 bởi các con số
trên đều làm tròn thành 100 được. Năm 1985 khi đổi tiền lần thứ hai lại có tờ
30 đồng. Điều này rất vô lý vừa sai luật quốc tế, vừa rất khó trong lưu thông
tiền tệ bởi 3 tờ 30 đồng thì thành chín chục, 4 tờ 30 đồng lại thành trăm hai.
*
Năm 1976, mùa hè nắng chết cua, mùa đông rét chết cá. Theo tàng thư Tổng cục
Khí hậu Thủy văn, rét kỉ lục ở miền Bắc là 1955. Năm đó SaPa âm 3 độ, tuyết rơi
suốt 17 ngày. Hà Nội, Thái Bình, Nam Định rét 0 độ C. Thường thường xuống 0 độ
C là có tuyết rơi nhưng dân làng Vẽo vẫn không được nhìn thấy một lần tuyết rơi
trên quê nhà. Du kích Việt Hùng theo lệnh của Hồ chủ tịch phát trên đài, sáng
sớm đứng ở đầu làng canh không cho phép bất kỳ ai ra đồng xuống ruộng vì rét
đậm đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng con người.
* Dân làng Cau Vẽo mãi mãi ghi nhớ liệt sỹ Lê Văn
Túc, đã hy sinh trong một lần đi kiểm tra trận địa, vì tối giời đã vấp phải mìn
do chính du kích Việt Hùng cài đặt để đón lõng giặc Pháp. Cái chết của liệt sĩ
Lê Văn Túc đã làm cho giặc Pháp và bọn Việt gian đóng ở bốt Cống phải khiếp sợ.
Cả mấy tháng giời chúng không hề bén mảng đi tuần. Anh Văn và anh Túc đều là
người làng Cau. Ông Lê người xóm Đông, là đội trưởng du kích Việt Hùng, trước
khi hi sinh đã sinh được ba người con đó là Gái, Trãi, La. Anh Trãi lại là liệt
sĩ hi sinh trong kháng chiến chống Mỹ. Bà Kỳ là vợ ông Lê, có chồng và một con
trai là liệt sỹ nhưng vẫn không được công nhận là bà mẹ Việt Nam anh hùng bởi
luật lệ nhà nước rất khắt khe trong khi chỉ có con độc là liệt sỹ là đã được công
nhận như bà Rữu ( tên thật là Nguyễn Thị Đào) và bà Thìn (xóm Tiền Phong). Theo
quan điểm Nho giáo, người phụ nữ phải chịu sự giáo dục theo nguyên lý tam tòng tứ đức. Tam tòng là tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử
tòng tử. Tứ đức là công dung ngôn
hạnh. Khi ở nhà được cha mẹ đặt tên là Kỷ, khi lấy chồng phải mang tên
chồng nên dân làng gọi từ Kỷ sang Lê. Khi chồng chết lại gọi từ tên chồng sang tên
con trai cả, nên gọi là bà Trãi. Khi anh Trãi hi sinh ở chiến trường miền Nam
thì dân làng lại gọi là bà La (tên người con trai út). Như vậy bà có bốn tên Kỷ,
Lê, Trãi, La (gồm tên mình và tên chồng con). Qua đó mới thấy cuộc đời bà thật
đa truân. Hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ vẻ vang thần thánh nhưng
cũng làm cho cuộc đời người phụ nữ lắm nỗi điêu linh. Nên có một con đường mang
tên Lê Văn Túc chạy vắt vẻo qua hai làng Cau Vẽo. Hiện nay Luật nhà nước ta đã
thay đổi, theo đó có hai người là liệt sỹ thì được công nhận Bà Mẹ Việt Nam anh
hùng. Bà La (xóm Việt Hùng), bà Tăng (xóm Minh Khai) chắc chắn phải được công
nhận danh hiệu cao quý trên.
* Sau khi tiêu diệt được đội du kích Thẫm, đại
úy Roong, một sỹ quan Pháp trong trung đoàn lính Lê dương đã được thượng cấp phong
chức chánh mật thám và điều sang làng Vẽo với nhiệm vụ phải tiêu diệt bằng được
đội du kích Việt Hùng. Hắn thuộc làng Vẽo như lòng bàn tay và cũng nhẵn mặt bà
Tý Ngan…
*
Trước Cách mạng Tháng 8 xã Minh Châu và xã Đồng Phú chỉ là một xã và được gọi
xã Châu Nhạn thuộc tổng Cao Mỗ. Sau Cách mạng Tháng 8 được tách thành Minh Châu
(hòn ngọc sáng) và xã Thu Nhạn (chim nhạn trắng bay giữa mùa thu rực nắng mai
hồng). Theo ý kiến của ông Lương Duyên Hồi thì cái tên Thu Nhạn nghe lãng mạn
quá nên ghép tên ba thôn (thôn Đồng Cống, thôn Cao Phú, thôn Phú Vinh) trở
thành xã Đồng Phú (mọi người cùng giàu). Cái tên Thu Nhạn chỉ tồn tại trên văn
bản được ba bảy hai mốt ngày.
*
Năm 1946, Hồ chủ tịch ra Sắc luật thành lập Nha bình dân học vụ, để xóa mù chữ
cho dân. Lúng túng loay hoay, không biết làm cách nào, du kích Việt Hùng liền
nghĩ ra diệu kế, bồng súng đứng ở đầu chợ Vẽo (mà ngày nay là nhà ông Điến, ông
Tâm) chỉ người nào đánh vần, ghép vần những chữ cái A B C mới cho vào chợ.
Nhiều người phải chạy cầu cứu bà Tý Ngan. Nghe xong bà đọc vanh vách: O tròn như quả trứng gà, ô thời đội mũ, ơ
thời thêm râu, i thời như cái lưỡi câu,vờ thời con vịt uốn đầu cong đuôi, cờ
thời như quả chuối tươi, xờ thời hoa muống cong đầu xinh xinh , quờ thời hai đứa
chúng mình, gầu sòng tát nước đầu đình sớm mai….Dân Cau Vẽo nghe xong cười
phá lên. Nhưng cuối cùng vẫn vào được chợ. Du kích Việt Hùng rất ngạc nhiên về
khả năng biết đọc, biết viết của bà. Tan chợ có người không quên cho bà quả
chuối, quả chăn….Có lẽ bà Tý Ngan được cụ Chuyển dạy chữ quốc ngữ khi bà thức
canh đun nấu cháo phát chẩn trong nạn đói Ất Dậu năm 1945.
*
Năm 1950 giặc Pháp mở trận càn và bắt 12 người đàn ông làng Vẽo tống vào ngục ở
Nam Định vì nghi ngờ họ có mối liên hệ mật thiết với du kích Việt Hùng. Những
người bị bắt đi tù đó là: Ông Uyển, ông Miện, ông Thâu, ông Thuyên, ông Liên, ông
Nga, ông Rò, ông Thê, ông La (xóm Tải)..vv… Ông Thuyên do biết tiếng Pháp nên
được trưng dụng làm thư ký cho viên cai ngục. Trước khi quân Pháp rút khỏi miền
Bắc Việt Nam, một sỹ quan Pháp có mời ông Thuyên sang Pháp định cư. Những vì
nặng tình nặng nghĩa với xóm làng, lại đã có vợ con nên ông Thuyên đã từ chối.
Năm 1956 trong cải cách ruộng đất ông Thuyên cũng không tránh khỏi những lao lý
đầy oan nghiệt. Cuối năm 1953 du kích Tân Đệ đánh úp trại tù giải thoát tù nhân
chỉ ngoại trừ ông Thê lúc đó là một cậu bé 13 tuổi, trẻ mục đồng, tối ngày chăn
trâu cắt cỏ nên được thả sớm hơn một năm. Công trạng của những người nói trên
trong kháng chiến chống Pháp chưa một lần được ghi nhận….
*
Hai cha con gã địa chủ xóm Chùa xiết nợ mảnh ruộng lúa sào hai vào năm 1910 của
gia đình bà Tý Ngan là Bành Hắc và Bành Hước. Bành Hắc là người Hoa, quê ở
Quảng Tây, có cha mẹ đều là người Hoa. Nhưng đến đời Bành Hước là đời F3 (đời cháu)
sống ở làng Vẽo thì mẹ Bành Hước là người Việt đến từ làng Giắng. Bành Hắc chết
năm 1930 vì căn bệnh ung thư. Theo như Bành Hước kể thì khi đút cháo cho cha, phát
hiện thấy lưỡi của cha có ba màu. Trong cùng là màu trắng, giữa lưỡi là màu đỏ,
mép ngoài cùng của lưỡi là màu đen mõm chó. Đây là triệu chứng rất rõ nét của
bệnh ung thư và đang ở giai đoạn di căn đầy vô vọng…. Người có lưỡi tam sắc,
cuộc sống được tính từng ngày. Không bao lâu sau, điệu kèn lâm khốc não nề thê
lương sẽ vang lên ngậm ngùi tiễn biệt. Vì chỉ quen buôn bán, không quen làm
canh nông nên sau khi làm giỗ 49 ngày cho cha, ba tuần nhang còn chưa tan hết
khói, Bành Hước đã vội bán toàn bộ nhà cửa, vườn tược cho phó Thịu và rời khỏi
làng Vẽo ra đi, không hẹn ngày về. Năm 1943 cụ Tầng, cụ Vạn, cụ Minh, cụ Phiên
khi đó là những chàng thanh niên 29, 30 tuổi rời làng Vẽo vào Sài Goòng làm cửu
vạn. Một chiều kia, nhớ vợ thương con thèm thịt chó, họ rủ nhau đến quán cháo
vịt ở đầu cầu Thị Nghè. Bất ngờ nhất họ nhận ra người chủ quán đang tay dao tay
thớt lại là Bành Hước. Cả chủ và khách đều mừng mừng tủi tủi vì giữa đất khách
quê người gặp lại người làng họ quý nhau như anh em ruột. Hước kể, Hước là
người cùng tuổi với bà Tý Ngan, vẫn cùng chơi đánh đáo, đánh khăng với bà. Ngày
xiết nợ mảnh ruộng sào hai, nhìn thấy bà khóc nhưng vì đều là trẻ con, Hước
không làm được gì. Đành rằng có vay thì có trả, nhưng vì vợ chồng người ta bệnh
tật phải vay tiền chạy thuốc. Khi người
ta chết lại tịch thu mảnh ruộng, nguồn sống duy nhất của con cái họ. Như thế là
dã man tàn nhẫn. Ân hận với việc làm của cha mình, là dồn ép Tý Ngan vào chân
tường cuộc sống nên Hước lấy ra hai đồng bạc Đông Dương nhờ cụ Vạn mang về biếu
bà. Cụ Tầng, cụ Vạn, cụ Minh, cụ Phiên cũng bùi ngùi xúc động nên bỏ thêm tiền
túi giao cụ Vạn giữ và số tiền lên đến hai đồng, chín hào, năm xu, bảy chinh,
ba xèng, đủ cho bà Tý Ngan ăn ròng rã ba tháng giời. Năm đó khi về đến quê nhà,
cụ Vạn đã đưa ngay số tiền này khi thấy bà đang lang thang ở đầu Rộc. Cụ Tầng
kể. Bà cầm tay từng người, miệng luôn nói cho
chị xin, cho chị xin. Bàn tay bà gày gò mà rất ấm áp. Chứng tỏ bà là người
sống nhân hậu nghĩa tình. Khi nghe nhắc đến Bành Hước, bà liền vụt khóc
bởi ngày Hước ra đi trong tâm khảm bà luôn luôn nhớ thương về người
trai mà bà đã lần đầu xao xuyến. Một mình trong đêm trường giá lạnh
bà đã ước ao vòng tay ân ái của Bành Hước. Trong lòng bà không một
chút hận thù vì mảnh ruộng sào hai bị tước đoạt mà thay bằng lòng
vị tha, sự bao dung và một tình yêu đôi lứa lặng thầm trộm vụng…
*
Trải qua 700 năm lịch sử, làng Vẽo đã ba lần có người Hoa đến định cư. Năm 1699
có cha con Uất Cang đến từ Quảng Châu. Khi sang làng Vẽo, Uất Cang mang theo vợ
và hai con trai tên là Uất Phi và Uất Phê. Dân làng Cau Vẽo vốn giỏi về gọi
trại danh nên gọi ba cha con là Càng Phì Phệ, Phề Càng Phị, Phì Càng Phệ. Khi
Uất Càng chết dân làng lại gọi là anh em Phì Phệ, Phề Phị. Một lần Phề cưỡi một con trâu cái bơi qua sông Hồng,
chọi với trâu Đồ Sơn, đánh gục ba trâu đực nơi xứ người và dành giải quán quân
vô địch. Dân Đồ Sơn gả vợ cho Phề. Từ đó Phề không trở về làng Vẽo. Phị ở
lại làng, không làm ruộng mà quanh năm
suốt tháng bắt cá đầm sen mang bán chợ Khô. Một lần tháo sạch nước để bắt cá
chép trong ruộng nhà Khật Khưỡng lại không tát đền, bị cha con Khật Khưỡng đánh
cho một trận nhừ tử. Trả thù Phị bỏ thuốc độc giết chết lợn sề và đàn lợn con
của nhà cha con Khật Khưỡng người cùng làng. Tội ác kêu gọi tội ác, lợi dụng
đêm Đông lạnh giá, Khưỡng nghe theo lời cha dùng trâu, cày nát ngôi mộ vợ chồng
Uất Càng. Mâu thuẫn càng thêm chồng chất, Phị bỏ làng ra đi. Giữa đầm sen mà
nay là cánh đồng Vượt có một gò đất nổi cao ở giữa đầm. Đã từ lâu được một con quạ
ba khoang thả xuống một hột thị mà sau này mọc thành Cây Thị Có Hồn. Năm nào
cây thị ra hoa sai quả, thì năm đó mưa giây bão giật, lụt lội triền miên, nhà
tan cửa nát. Già làng là cụ cả Mướp sai một tráng niên, trèo lên ngọn cây bàng
(xóm Tải) treo một lá cờ đuôi nheo màu đen để báo hiệu cho cả vùng biết phòng
chống bão lụt, tích trữ lương thảo, sẵn sàng chạy lụt. Năm nào thị không ra
hoa, không kết quả năm đó mùa màng tươi tốt, chòm xóm yên vui thái hoà. Giữa
khuya dù đêm đó trăng sáng vằng vặc, giận cá chém thớt, Phị đã chặt đứt cây thị
để rửa hận thù mồ cha mẹ bị cày phá. Cụ cả Mướp khi đó mới lập gia đình, đẻ
liền bốn người con trai, vì xót thương cây thị bị chặt phá, không còn dự báo
thời tiết cho dân làng, nên cụ đặt tên cho bốn người con trai là: Nguyễn Chính
Cây, Nguyễn Chính Thị, Nguyễn Chính Có, Nguyễn Chính Hồn. Năm 1739 ba anh em là
Cây Thị Có rời làng Vẽo, lang bạt kỳ hồ, không tung tích. Người em út là Nguyễn
Chính Hồn ở lại làng lập gia đình sinh con đẻ cái mà ngày nay hậu duệ là ông
Phán, ông Thoan, ông Điểm, ông Toản, ông Liêu (người thợ làm diều buông) nổi
tiếng khắp một vùng. Xót xa bởi quá nhiều người chết vì cây thị có hồn bị chặt
phá, không còn được nghe cây thị dự báo thời tiết, không ai biết mà trốn bão,
chạy lụt nên cụ cả Mướp có đặt vè như sau: Ve
vẻ vè ve, cái vè cây thị, xanh cành tươi lá ,kết trái đơm hoa, ông giời gây
hoạ, đầy đọa dân làng, mưa giây bão giật, chạy đôn chạy đáo, già trẻ mếu máo,
gào khóc điên cuồng,chim muông tan tác… Năm nào xơ xác, lá rụng cành khô, chẳng
hoa vắng quả, gió thuận mưa hoà, vườn cà sai hoa, vườn cau sai quả, gái trai
trẩy hội, chiếu chèo đình Vẽo, ngân mãi vang xa…ve vẻ vè ve…
Người
Hoa thứ ba là một thanh niên tên là Mã Triệu (huyện Phòng Thành) đến làng Vẽo năm
1978. Do quan hệ Việt – Trung căng thẳng nên anh này phải về bên kia biên giới
và đã chết trong đám hỗn quân hỗn quan đầu Xuân 1979 trong cuộc chiến tranh
biên giới đầy ác liệt để lại mối tình đầu dang dở với một thôn nữ xóm Đông.
*
Đầu năm 1953 giặc Pháp mở một trận càn vào làng Vẽo. Cụ Thư, cụ Hoành khăn đóng
áo dài chống gậy batoong ra đầu làng đón tên quan hai Pháp và bọn lính dõng để
giữ chân địch ở trong làng, không cho chúng sang càn làng Cau, một làng tề, nơi
đang tập trung dân làng và du kích. Bằng vốn tiếng Pháp của mình hai cụ nói cho
chúng biết rằng trong làng không có du kích chỉ có người già, phụ nữ và trẻ con,
trong khi cụ Bao bừu nhảy xuống ao Miếu đánh trống nước để báo động cho du kích
Việt Hùng rút lui nhằm bảo toàn lực lượng. Dân làng vẫn sợ hãi chạy càn và
trong lúc hỗn quân hỗn quan, cụ Tầng lại lạc vào đội du kích Việt Hùng trong
khi họ lặng lẽ bí mật rút về mật cứ. Ba tên lính Pháp vừa chạy vừa bắn, một
viên đạn sém thái dương cụ Tầng, sau này tạo ra một vết sẹo nhỏ. Ông Lê chỉ huy
du kích bắn thẳng vào đội hình địch nhưng cũng không chết tên nào, chỉ làm cho
chúng sợ hãi chạy về làng Vẽo. Cụ Tầng thoát chết trong gang tấc. Cụ cứ nhớ mãi
cái ơn này với ông Lê và du kích Việt Hùng. Cụ còn nhắc đến trước giây phút lâm
chung. Năm 1974, Cụ gả người con gái út xinh đẹp cho người con trai út của ông
Lê. Đẹp việc nước vẹn việc nhà. Trên đường ba tên lính Pháp hoảng hốt rút về
làng Vẽo, ông Ngải khi đó còn là chàng trai 33 tuổi bất ngờ đội hầm chui lên,
chẳng khác gì lạy ông tôi ở bụi này. Giặc bắn như vãi đạn về phía ông. Nhanh
như sóc ông liền nhảy xuống ao bồng bồng, nằm im chờ trời tối. Nghe tiếng súng,
cụ Thư liền ra mời bọn giặc Pháp về nhà cụ Hoành uống rượu nút lá chuối với
thịt cầy. Sau đó ông Ngải bí mật thoát về làng tề. Đêm đó trong mật cứ, ông Lương
Duyên Hồi kể cho cụ Tầng và cụ Ngải nghe chuyện đã gặp anh em Bàng, Thị ở đảo
Guy. Giữa khuya mở cho cụ nghe đài phát thanh tiếng nói Việt Nam, phát thanh
gần Hà Nội, thủ đô nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cụ rất bất ngờ khi nghe bản
tin chiến sự mô tả du kích Thị Nghè đánh giáp lá cà với một trung đội giặc Pháp,
cuối cùng phải rút lui vào một quán cháo vịt đầu cầu. Để bảo vệ du kích rút lui
an toàn, chủ quán Ba Hước, người Thái Bình hiền lành, quanh năm suốt tháng chỉ
biết chân chỉ làm ăn, bất thình lình cầm con dao phay tả xung hữu đột giữa trận
tiền, chém chết ba tên lính Pháp và chỉ gục ngã bởi hai phát súng lục từ họng
súng của tên thiếu tá Roong bắn từ trên cầu.
*
Có ba giả thuyết về cái chết của bà Tý Ngan: - Sa vào ổ phục kích của giặc Pháp
– Du kích Việt Hùng nhìn gà hóa quốc đã vội vã nổ súng. – Tháng củ
mật, giời tối om, ma đưa lối, quỷ đưa đường ….
Cứ liệu lịch sử
:
* Văn
học dân gian Thái Binh – NXB THÁI BÌNH – 1997
* Hồ sơ giặc lái Mỹ - Hỏa Lò 1972
* Tàng thư lưu trữ Tổng cục Khí hậu
Thủy văn, Lịch sử Đảng bộ Thái Bình
* Lời dạy bảo tận tình của cụ Tầng,
cụ Vạn, cụ Thường, cụ Bao bừu, cụ Thuyên (xóm Đông), cụ Phạm Đồng Huy ( đằng
cổng Tải ), ông Phạm Đình Sự (xóm Chùa)
LỜI BÌNH
Cụ
Tầng (xóm Đông): Kể
cũng hay, bà Tý Ngan là người khôn ngoan, đã đưa ra hai cái bát, một bát nói có
canh, một bát nói có cơm. Nên ngay một công việc tầm thường nhất của kẻ ăn mày
cũng cần nghệ thuật. Đó là nghệ thuật giao tiếp và nghệ thuật ứng xử.
Già
kể cho các cháu nghe mà các cháu lại thắc mắc bà Tý Ngan là bà cô thúc bá người
bác rể vợ cụ lang Hành nghĩa là sao? Vậy các cháu hãy giải thích cho già nghe
người phụ nữ xưng là tôi trong câu
đố sau có quan hệ như thế nào với người quá cố:
Tôi ngồi tôi khóc anh tôi
Anh ấy là anh chồng tôi
Chồng tôi là cha anh ấy
Anh ấy gọi tôi bằng dì.
Vậy
mối quan hệ của họ ra sao?
Cụ
Miện (xóm Đông): Bà
Tý Ngan là người nhân hậu, nên luôn được giời cứu. Con ngan đực đã làm bà
đỡ trong khi hàng xóm đã định đem chôn. Tổng cộng đã có bốn đến năm lần bà được
giời cứu thoát khỏi lưỡi hái tử thần, đặc biệt là thoát khỏi nạn đói khủng
khiếp năm Ất Dậu một cách thần kỳ. Đó là điều may mắn hơn người. Bà đã nhường
cơm sẻ áo ngay cả khi không có cơm, chẳng có áo…Người giàu mà sống ích kỷ chỉ
bo bo cho mình thì phải xem lại bản thân.
Nhiễu
điều phủ lấy giá gương
Người
trong một nước phải thương nhau cùng
Cụ
Bao bừu (xóm Đông)
Là người khỏe mạnh nhưng lại có một bừu
thịt nhỏ nằm bên trái đỉnh đầu như một khối u lành tính nên dân làng gọi ông là
cụ Bao bừu. Cụ có tài đánh trống ngay cả khi không có trống. Cụ xuống ao Miếu,
dạng chân bằng hai vai, hai tay khuỳnh khuỳnh, khoằng khoằng xuống nước, tiếng
trống tùng tùng vang vọng, vang xa. Bằng những tiếng trống này, đã mấy lần cụ
báo tin cho du kích Việt Hùng thoát khỏi cuộc săn lùng của giặc Pháp.
Cụ đưa ra lời bình: Không
bao giờ ăn xin ở làng bên, chứng tỏ bà Tý Ngan đã không làm hổ danh cho làng.
Con cháu dân làng Vẽo nên học hỏi. Nếu không đem vinh quang về cho làng thì chí
ít cũng phải giữ thể diện cho làng. Tuy nghèo khổ, đói rét mà chưa một lần bà
Tý Ngan bới trộm khoai lang, bắt trộm gà của dân làng mà người ta cho gì ăn
nấy. Bà cũng không tham ăn tục uống, mà chỉ xin một tý, cho tôi một tý, cho tôi tý cơm để ăn nốt tý canh, cho tôi tý
canh để ăn nốt tý cơm. Bà đã làm đúng lời răn dạy của tổ tiên: Đói cho sạch, rách cho thơm. Khi được cho ăn no thì cũng ăn thật
no, cho đã đời, không nề hà, không thẹn thùng xấu hổ, không phụ lời mời của
người tốt bụng. Đói mà ăn là tự nhiên, là văn hóa. Đói mà không ăn lại càng văn
hóa.
Cụ
Chuyển là người khá giả trong làng đã nấu cháo phát chẩn cho người nghèo khó,
cùng với bà Tý Ngan cứu được rất nhiều người thoát khỏi chết đói nhưng lại
không cứu nổi người em gái của mình đã chết gục trong nạn đói Ất Dậu năm 1945,
cũng chỉ vì bà em gái này sĩ diện không chịu lại nhà ông anh giàu có. Khi cụ
Chuyển và bà Tý Ngan đến nhà ở đằng cổng Tải thì bà em gái đã chết được một
tiếng đồng hồ. Nên người ta thường chết vì bệnh sĩ trước khi chết vì bệnh tim….
Cụ
Kiêm (xóm Đông): Bà
Tý Ngan rất nghĩa khí. Sẵn sàng lao vào kẻ vũ phu uống rượu say, còn đánh đập
vợ.. Bà là biểu tượng cho người phụ nữ vùng lên chống lại bạo lực gia đình đòi
quyền bình đẳng cho phụ nữ Việt Nam dưới thời phong kiến gia trưởng, lạc
hậu, bảo thủ, cường quyền…
Ca dao Việt Nam có câu:
Cái cò là cái cò quăm
Mày hay đánh vợ mày nằm với ai
Có đánh thì đánh sớm mai
Chớ đánh buổi tối không ai cho nằm
Người đàn ông hàng xóm tốt bụng trong bài
ca dao trên chỉ có lời khuyên nhẹ nhàng kẻ vũ phu chứ không dám đạp cửa xông
vào, liều mình như chẳng có như bà Tý Ngan đã làm. Ngẫm lại mà xem, cái lối
sống nhỏ nhen, đèn nhà ai nhà nấy rạng, không quan tâm giúp đỡ nhau. Thật là
đáng trách. Khi chết rồi bà vẫn chưa hả giận, nên đêm đêm lẻn vào nhà Khắt, bóp
cố Khắt, đuổi Khắt ra khỏi làng. Chứng tỏ kẻ không xứng đáng là đấng nam nhi
quân tử đã bị vạch mặt và bị cách ly. Trong câu chuyện bà Tý Ngan, cụ Bề cũng
rất đáng nể phục. Cụ tần tảo thức khuya dậy sớm, đầu tắt mặt tối, mò cua bắt ốc
nuôi đàn cháu mồ côi. Đêm khuya soi đèn giăng lưới bắt tôm bắt cá tận xóm Từ,
mới nghe Khắt quát tháo đánh đập vợ nhưng đã bỏ dở dang mẻ tôm, mẻ cá đi cầu
cứu bà Tý Ngan. Cụ còn chia sẻ củ khoai củ sắn cho bà đúng như lời răn dậy của
tổ tiên: Một miếng khi đói
bằng một gói khi no.
Cũng theo lời cụ Kiêm thì làng ta có rất
nhiều người giỏi chữ Nho. Ngay cái việc đặt tên cho con cho cháu cũng rất thâm
thúy. Nổi tiếng nhất là dòng họ Vũ ( xóm Tải ) có tên cha tên con, tên anh tên
em trong cùng một nhà mà ghép lại thành hai vế đối rất hoàn thiện :
Thông
Reo Đoàn Tửu Lại Như Miên
Trúc
Đầm Tơ Lụa Thép Phúc Viên
Ở
xóm Đó, cũng có một chi nhánh họ Vũ (xóm Tải) mà tên con
chú, con bác cũng thành một câu đối hoàn chỉnh:
Thau
Vàng Đắc Chí Thọ
Chén
Thiếc Tốt Tươi Yên
Nhưng cụ Kiêm lại khâm phục tài làm thơ
của ông Bùi Đăng Bính ( xóm Tân Dân) với bài thơ Thợ cất vó mô tả hình ảnh
cối đá xuống, vó bè lên thật tài tình…
Không
phải rừng xanh, cũng suối reo
Đâu
phải non cao cũng trèo đèo
Đêm
ngày thao thức theo con nước
Cũng
chẳng giàu sang, cũng chẳng nghèo
Cụ Yêm (xóm Chùa)
Là người bị sài giật làm cho mồm méo chân
thọt, có kiểu đi đánh dậm, còn gọi là cụ Yêm đánh dậm, cũng ra khỏi làng năm
1976, lập nghiệp ở Bình Phước, do siêng năng chịu khó, thuận vợ thuận chồng, cụ
đã để lại cho con cháu chín cửa hàng xăng dầu ở Bù Đăng, Bù Đốp. Con cháu cụ
hiện nay giàu có sung túc.
Lời bình của cụ Yêm:
Khi bà Tý Ngan mất tích, dân làng xôn xao
và càm thấy trống vắng. Với khuôn mặt đen đúa nhưng rất nhân hậu nên lũ
trẻ chúng tôi – cụ Yêm khi đó là đứa trẻ mục đồng mười tuổi – chạy theo sau
lưng và gọi bà Tý Ngan là mụ phù thủy. Lớn lên chúng tôi gọi bà là bà phù thủy
nhân ái. Dân làng Vẽo đã nuôi bà và khi bà chết luôn coi bà là người chung của
làng nên ai cũng lo lắng, muốn làm tang cho bà. Đám tang bà không có ai đội
khăn tang nhưng dân làng sẽ đội tang trong dạ trong lòng. Rất tiếc, bà đi vào
cõi hư vô nhẹ tựa lông hồng. Thế mới hay: Sống
nhân nghĩa với dân làng, làng sẽ trả ân báo nghĩa.
Cụ Uyên (rèn):
Là người không được học cao, nhưng do đọc
nhiều sách, cụ Uyên là người có kiến thức uyên thâm, trên thông thiên văn, dưới
tường địa lý, ứng xử đức độ với dân làng. Con cháu cụ cũng được hưởng phúc đức
mà cụ để lại. Cụ có nghề thợ rèn, ngày ngày cụ làm ra búa liềm ,dao kéo, cuốc
thuổng cho dân làng nên được gọi là cụ Uyên rèn.
Cụ Uyên đưa ra lời bình:
Là người giời đánh thánh vật nhưng cũng
lại được giời cứu ma phù, bà Tý Ngan trở thành tấm gương sáng về tính cần cù
chăm chỉ. Bất kì ai có công lên việc xuống bà đều có mặt. Kể cả việc xuống ao
lấy bùn. Lâu nay cho bà là người suốt đời hành khất đều là không đúng đắn, không
công bằng. Tuy không có một bàn thờ, nhưng giai thoại về bà sang tận thế kỷ 21
chứng tỏ bà được thờ trong tâm trí người làng Vẽo từ xưa tới nay. Nếu sách giáo
khoa dạy toán cấp một phổ thông mà in câu nói của bà thì chứng tỏ tên tuổi của
bà còn vượt xa ra khỏi lũy tre xanh quanh làng.
Bà Tý Ngan đã sống đúng với lời răn dạy
của tổ tiên: Có đức thả sức mà
ăn
Ông Nguyễn Đức Tiến( xóm Đông)
Sinh năm 1947, nhập ngũ năm 1965, chiến
đấu tại chiến trường B, đã có 2 năm mai phục tại chiến trường K, là một điện
tín viên tinh túy và sắc xảo có uy tín cao với thượng cấp và đồng đội, giải mã
những mật lệnh quan trọng để Trung tướng Hoàng Minh Thảo vạch kế hoạch tác
chiến cho nhiều trận đánh lớn và đánh thắng giòn giã, nhưng vì hoàn cảnh gia
đình nên năm 1974 trở lại quê nhà làm ruộng, cùng với người vợ hiền tần tảo,
lấy sức người vượt sức thiên nhiên, sống chan hòa đồng lúa nương khoai, mong một
mùa gió thắm, giống như Thánh Gióng không màng danh lợi, giống như Thủ tướng
HunSen rất thích món rau muống luộc chấm nước mắm vắt chanh và ớt xắt, nhất là
khi 2 anh con giai từ Hà Nội mang về những quả sấu thả vào nồi canh thì cho đó
là món ăn ngon nhất trần đời, mặc dù không hề biết mặt bà Tý Ngan nhưng ông
Nguyễn Đức Tiến lại có lời bình rất sâu sắc như sau:
Đời bà Tý Ngan gắn với con số 2. 2 lần
được sinh ra. 2 lần được đỡ đẻ. 2 tháng chịu 2 đại tang, có ruộng lúa sào 2. 2
phát súng lục đã kết liễu đời bà. Chiều tối trước khi bà chết, cả một giàn gấc
sai quả nhưng lại có 2 quả gấc cương cương tự nhiên rụng xuống sân nhà bà.
Trước đó 2 tuần cụ Phó Giả xin bà 2 quả gấc. Giữ lời hứa, bà nhặt đem vào góc
nhà, ngày mai mang biếu cụ để thổi xôi gấc đón xuân. Ai xin cũng không cho, ai
mua cũng không bán chứng tỏ bà luôn là người biết giữ lời, trung hiếu, nhân
hậu, chân thành. Luôn ghét người giả dối, ghét kẻ nói một đằng làm một
nẻo, ghét cay ghét đắng kẻ nói xấu sau lưng người khác.Trong người bà cũng có 2
con người.1 người nghèo khổ, hành khất, bất hạnh…1 người chân thành, nhân hậu,
nghĩa tình … Lâu nay, người ta nghĩ bà là người vô học nhưng bà Tý Ngan vừa có
kiến thức số học vì đã biết phép tính cộng, cộng 9 bát cơm, cộng 1 bát cháy,
cộng 3 bát mày mạy..vv… vừa có kiến thức văn chương vì biết láy âm láy vần, làm
cho câu nói tự nhiên bột phát lại dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ… nên góp phần xứng
đáng cho nền văn học toán của tỉnh nhà…Câu nói của bà đã trở thành phương ngôn,
mà dân làng không bao giờ quên được. Các anh cứ đọc kĩ lại mà xem: Chín bát cơm, lùm lùm bát cháy, ba
bát mày mạy, một bát ngô rang….
Ở xa làng, mà anh vẫn viết
được sử làng. Có bột mới gột
nên hồ. Với anh nước lã mà
vã thành hồ. Thật là khâm phục! Lần trước viết thư về làng anh nói rằng, mừng mừng tủi tủi, mừng vì
làng quê ta đổi thay đã nhiều, tủi vì chưa làm được gì cho làng cho xóm.
Thật là cảm động! Gặp lại anh xin mời anh mấy chén rượu nút lá chuối, nếp quýt
hoa vàng, nguyên chất Quỳnh Hoa….
Ông Ngô Dụ (xóm Đó)
Trở về từ chiến trường miền Nam, với
thương tật được xếp hạng 4/4 cùng một tiểu đội chiến đấu và trực tiếp chôn cất
người em thúc bá là liệt sĩ Ngô Văn Thạnh hy sinh ở Tiền Giang, ông Ngô Dụ khẳng
định như đinh đóng cột rằng, bà Tý Ngan là họ hàng dây mơ rễ má thúc bá với cụ
Phạm Văn Ngận, mà ông Lân (xóm Việt Hùng), ông Kỷ (cựu Bí thư huyện ủy – xóm
Tiền Phong), ông Phạm Khánh Toàn (nhà giáo nghỉ hưu – đằng cổng Tải)… là hậu
duệ đời thứ ba, thứ tư của bà Tý Ngan. Ông Lân, ông Kỷ, ông Toàn nên đứng ra
lập miếu thờ cho bà, để dân làng tiền hô hậu ủng …
Ông Phạm Văn Hiển (xóm Đống)
Gặp lại ông Hiển vào dịp cuối tháng 5/2012
tại quận 12 TP.HCM. Tính tình củ mỉ củ mì, ăn nói chậm rãi, tháng 5 câu, tháng
10 câu. Nghe mãi tích cóp lại, đại khái ông nói như sau:
Lịch sử làng Vẽo từ ngày khai thiên lập
địa đến nay chưa từng được viết. Viết về bà Tý Ngan chỉ nói lên một phần lịch
sử rất ngắn ngủi của làng Vẽo ta. Nói thật với anh là qua truyện ngắn bà Tý Ngan,
chúng tôi mới hiểu được một người đàn bà đầy bất hạnh nhưng lại điển hình cho
cả làng. Tuy thất học mà bà để lại hai câu nói nổi tiếng để dân làng nhắc đi
nhắc lại như một câu phương ngôn. Cũng xin nói thật, nay làng ta có bảng nhãn,
thám hoa cả đấy mà chả thấy anh nhãn nào, anh thám nào nói được câu gì cho ra
hồn để dân làng đọc, dân làng nhớ, dân làng nói.
Ngay như hiện nay dân làng đang ăn không
ngon ngủ không yên về một căn bệnh nan y như một đại họa mà không gì khắc phục
được. Nhưng chả thấy anh nào gửi về làng những bài viết phân tích nguyên nhân
bản chất cách phòng ngừa căn bệnh khủng khiếp này. Từ năm 1999 trở về trước cứ
10 năm mới có một người trong làng chết về bệnh ung thư. Nhưng từ năm 2000 trở
lại đây bình quân mỗi năm có một người làng nộp mạng cho tử thần bởi căn bệnh
ung thư đầy quái ác… Những người chết vì ung thư đều rất trẻ, hầu hết ở độ tuổi
39 đến 49 nghĩa là sống mới được nửa cuộc đời trong khi nhiều người qua đời ở
tuổi 79 vẫn bị coi là chết trẻ. Câu hát 60 năm cuộc đời không còn phù hợp nữa
mà phải là 80 năm. Nhưng có quá nhiều ca bệnh ung thư làm dân làng đêm ngày lo
lắng…
Kính thưa bà con dân làng!
Ung
thư là hai từ Hán Việt. Ung là thối, thư là trong. Lá thư thì cái phong bì bên
ngoài không quan trọng bằng cái bên trong là nội dung lá thư, chứa đựng tình
cảm người gửi dành cho người nhận. Hai từ ung thư thì từ thư được hiểu là tế
bào bên trong cơ thể con người. Tế bào đó bị chết thì gọi là ung thư. Nói nôm
na ung thư là thối thịt. Khi thịt thối sẽ làm cho mạch máu bị rối loạn, làm vỡ
mạch máu dẫn đến chảy máu trong, không cầm được máu và cái chết là điều tất yếu.
Trong tiếng Pháp ung thư có nghĩa là con cua, tức là nó có thể bò từ nơi này
qua nơi khác và gọi là di căn. Trước công nguyên hàng ngàn năm nhân loại chỉ
biết ba loại bạo bệnh tức là những căn bệnh nan y không chữa được bao gồm ruột
thừa, băng huyết và ung thư. Ngày nay bạo bệnh quá nhiều bao gồm HIV, SARS,
H5N1,H7N9...vv… Tuy nhiên chỉ có ung thư là căn bệnh trầm kha mà nhân loại tuy
không đầu hàng nhưng đã hoàn toàn bất lực.
Bệnh
ung thư không lây truyền từ người này qua người khác nhưng có khả năng di
chuyền từ đời này sang đời khác. Nguyên nhân dẫn đến ung thư rất đa dạng nhưng
hầu như đều bằng con đường ăn uống. Ăn những thứ sau đây thường dẫn đến ung
thư: Thịt đỏ nướng(trâu bò, heo ngựa, dê cừu, chó mèo…) chân gà nướng, mỡ động
vật, dầu phụng chiên đi chiên lại nhiều lần, dưa bắp cải, bắp cải luộc để qua
đêm, củ quả hạt đã nảy mầm (mầm củ khoai ăn vẫn vô hại trong khi củ khoai mọc
mầm lại rất nguy hại) dưa khú, nước mưa hứng từ trần nhà bằng xi măng, nước
đựng trong xô sắt để lâu ngày, nước máy mà vòi nước bằng sắt, nước sôi đun đi
đun lại nhiều lần, lúa ngô khoai sắn bị mốc… Ăn uống những thứ trên tạo ra
những phản ứng có hại cho cơ thể, gây ra đột biến gen, làm thay đổi cấu trúc gen
trong tế bào, làm cho tế bào chuyển hóa từ bình thường sang đột biến, từ đột
biến sang thối, từ đó loang dần ra chỗ khác gọi là di căn và dẫn đến cái chết.
Trong
tự nhiên có vô vàn những thứ dẫn đến ung thư nhưng cũng có hằng hà sa số đồ ăn
thức uống ngăn chặn được bệnh ung thư. Bà con nên thường xuyên ăn chanh ,hành,
gừng, tỏi, nghệ, sả, cà chua, cà rốt, chè xanh, dâu tây, sô cô la, cá biển,
rượu vang đỏ, các loại rau xanh…
Những
thức ăn trên chỉ có tác dụng phòng ngừa từ xa mà không thể tiêu diệt, một khi
tế bào ung thư đã hình thành dù chỉ bằng một hạt cám. Mọi lời quảng cáo bác sỹ Khựa
chữa được bệnh ung thư đều là lừa đảo, tiền mất tật mang…
Tuy
nhiên các bác sỹ Do Thái(ISAREN) lại khẳng định rằng, năm 2099 nhân loại sẽ
thanh toán thành công bệnh ung thư như đã từng thanh toán bạo bệnh lao, băng
huyết, SARS… bằng dược phẩm mà chủ yếu được chiết suất từ cây sả. Nên uống nước
sả như uống nước chè xanh hàng ngày bà con nhé !…
Ông Nguyễn Đại Xô (xóm Việt Hùng)
Năm 1969 đi thoát
ly, năm 1972, làm trưởng phòng giáo dục huyện Trạm Tấu (Yên Bái). Do hoàn cảnh
gia đình neo người, năm 1980 trở về quê nhà trong sự lưu luyến của đồng nghiệp
và học sinh vùng cao. Trước khi nghỉ hưu làm hiệu trưởng trường tiểu học Hoa
Nam. Những người thế hệ 5X như ông, khi cất tiếng khóc chào đời thì bà Tý Ngan
đã đi xa. Mặc dù chưa hề biết mặt bà, nhưng ông đưa ra lời bình như sau:
9 bát cơm, lùm lùm bát cháy, 3 bát mày mạy, 1 bát ngô
rang.
Sau nhiều lần thảo
luận, các nhà sư phạm vẫn không thể cho câu phương ngôn trên vào sách giáo khoa
cấp I phổ thông, bởi trẻ con học theo, ăn nhiều quá bội thực, ai sẽ chịu trách
nhiệm?. Qua câu nói trên chứng tỏ năm đó dân làng ta rất đói. Chuyện bà Tý Ngan
chỉ có dăm ba dòng về cái mặc, về cái ở. 99% nội dung còn lại đều nói về cái
ăn. Bữa ăn toàn ngô và gạo, không có cá thịt.
Bà Tý Ngan phải ăn cháo lá thài bi nhưng cũng xin nói rằng năm 1965,
1966 dân làng ta nhiều nhà vẫn phải ăn cháo lá thài bi thậm chí ở nơi khác họ
còn coi đó là món ăn sang vào thời điểm ấy. Sợ nhất có nơi còn ăn cám thài bi.
Là người hiểu biết sâu sắc về sử làng, nhưng tác
giả có dự đoán được tương lai làng Vẽo ta sẽ như thế nào không? Nhân đây đưa ra
ba kịch bản về làng Vẽo trong năm 2099 như sau:
1. Trở thành xóm vắng (33%). Thanh niên làng ta cứ lớn lên lại ra đi
và không hẹn ngày về. Ngay như ngõ cụ Vạn nhà ta, giờ đây chỉ còn người già và
phụ nữ. Đã mười năm rồi, không hề được nghe tiếng khóc trẻ con. Tối tối nhà nào
biết nhà nấy, vắng vẻ tẻ nhạt, vắng tanh vắng ngắt, vắng hơn nhà Khắt….
2. Trở thành thị tứ (33%). Mặc dù là đô thị loại sáu tức là dưới
cấp thị trấn, nhưng Phú Vinh thị tứ phố
xá sầm uất nhộn nhịp, có khách sạn nhà hàng, ngã tư đèn xanh đèn đỏ, chẳng khác
gì ngoại ô Tokyo – Nhật Bản hiện nay. Cánh đồng Từ Đó Mía Vượt Bến Sầm trở
thành sân gôn. Làng Cau Vẽo khang trang hiện đại, hoành tráng nguy nga…
3.
Trở thành công trường(33%). Làng Vẽo phải di dời
đi nơi khác vì trong lòng đất có than nâu, một loại khoáng sản cực kì quý hiếm,
làm nguyên liệu cho ngành công nghiệp vũ trụ, tàu ngầm, tên lửa hạt nhân, màn
hình ti vi siêu mỏng. Tuy nhiên khả năng thứ ba này khó có thể xảy ra bởi than
nâu nằm cách mặt đất quá sâu, từ 500 đến
1000 mét, làm cho việc khai thác là vô cùng khó khăn.
PTTg Hoàng Trung Hải lại chỉ đạo rằng, cánh đồng Từ
Đó Mía Vượt Bến Sầm sẽ trở thành công trường khai thác. Làng Cau Vẽo được giữ
nguyên và trở thành làng công nhân.
4.
Bất khả tiên đoán (1%).
Lê Thị Thanh Loan
Là sinh viên ngành thư ký văn phòng, Trường đại
học Văn hóa Nghệ thuật thành phố Hồ Chí Minh, quê Thanh Hóa sinh năm 1991. Rất
cảm động và đã từng rơi lệ với hình tượng bà Tý Ngan đầy lam lũ khổ ải nên làm
bài thi như sau:
Tý Ngan quả là một cái tên hết sức li kỳ, lạ
thường và dường như cái tên đó cũng gắn liền với con người, số phận của bà. Xấu
xí, khô khan, nhưng rất đỗi gần gũi, đời thường và mang đầy ý nghĩa.
Có
lẽ không chỉ riêng cá nhân tôi, mà với tất cả mọi người khi nghe được câu
chuyện của bà Tý Ngan, thì chắc hẳn rằng sẽ có rất nhiều cung bậc sắc thái tình
cảm đan xen lẫn lộn với nhau trong suy nghĩ mỗi người. Từ khi bà ra đời cho đến
khi bà ra đi. Từ sự kinh hoàng về cái bào thai dị dạng rồi đến lúc bà bị mất
hút trong màn đêm đen đầy ai oán, thê lương. Nhưng chung quy lại hay suy cho
cùng thì đó là sự đồng cảm, xót xa cho số phận bà. Thế là Ngan ơi, rụng bông hoa gạo, Chao ôi! Trời không nín gió cho ngày
chị sinh, ngày chị sinh trời không cho làm thơ, vấn vương với sợi tơ trời, tình
duyên bỏ chợ, tình người đa đoan…
Bà
Tý Ngan cả đời cơ cực, bần cùng. Không có cơm ăn, áo mặc, ăn buổi sáng phải lo
buổi chiều, ấy thế vậy mà còn đói, còn rách. Sống qua ngày là nhờ đi ăn xin ở
đầu làng cuối xóm. Bà ăn cả những thứ gớm giếc, tởm lợm mà không ai giám nghĩ tới như giun đất, đỉa đồng. Bởi vậy nên
dân làng Vẽo mới ví von bằng hai câu thơ để chế giễu bà:
Giun xào đỉa luộc cóc nấu riêu
Ai mà kinh tởm biếu bà Tý Ngan
Mặc dù sống trong hoàn cảnh như vậy, không vì số
phận hẩm hiu mà làm mất phẩm chất con người như người ta vẫn thường nói bần cùng sinh đạo tặc. Bà chưa bao giờ
trộm cướp của ai một thứ gì, bà chỉ xin và xin một tý, một tý... Đáng quí thay
khi bà được cụ Bề cho vài ba củ khoai luộc, giữa đường gặp người ăn mày, bà
không một chút mảy may do dự đã cho hết, mặc dù biết mình có thể bị tử thần gọi đi bất cứ lúc nào
vì đã nhịn đói mấy ngày nay. Quả là một việc làm hết sức lớn lao vào thời điểm
lúc bấy giờ vì cái bản tính thương người
như thể thương thân ấy dường như đã làm ấm lòng người giữa một ngày trời
mưa tầm tã vì một miếng khi đói bằng một
gói khi no. Qua đó cho chúng ta thấy
đến cả bản thân bà còn phải vất vả, khó khăn mới được vài củ khoai đó, vậy mà
Tý Ngan lại cho đi. Tục ngữ có câu lá lành
đùm lá rách, nhưng ngay chính bản thân của một người đàn bà đen đúa, gầy
gòm đã quá rách rưới, tả tơi. Vậy thì điều gì? Và sức mạnh nào đã đẩy đưa bà
làm những việc ý nghĩa như vậy mà sở dĩ cái bản tính đó không phải ai cũng có
được. Phải chăng nhất thời lúc đó bà cao hứng hay đó là một sự phản xạ hiển
nhiên? Nhưng không hẳn vậy, vì bởi lẽ
rằng chính bà đã lấy tình yêu thương của con người mà đùm bọc lấy một con
người.
Hãy cho hết
những gì bạn nhận được và hãy lắng nghe tiếng gọi của lòng thương xót.
Đừng nghĩ rằng
cái ít ỏi bạn cho đi là lớn lao và cái to lớn bạn nhận được là ít ỏi.
Từ sự cảm thông, chia sẻ của bà dành cho người
cùng cảnh ngộ, sống có tình làng nghĩa xóm với tất cả mọi người nên Tý Ngan
được bà con cô bác rất quí mến. Có lần bà bị ốm, cả làng biết. Vẫn có người
mang cháo hành nóng có lá tía tô và ngải cứu cho bà. Chứng tỏ rằng Tý Ngan có
một vị trí nhất định trong lòng của mỗi người con làng Vẽo, họ quan tâm, giúp
đỡ lẫn nhau. Thật đáng trân trọng cho những con người nơi đây, tuy đói rách
nhưng vẫn sống vui vẻ, trọng tình, trọng đức như truyền thống của dân tộc ta.
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn
Quả thật
những con người nghèo tiền, nghèo bạc chứ không nghèo tình, đặc biệt là bà Tý
Ngan bà không những chinh phục được tình cảm bà con lối xóm mà đã làm lay động
đến trời xanh, vì thế năm lần bảy lượt
bà bị chết hụt đều được trời cứu, nhân nào thì quả nấy. Lúc thì sắp bước xuống
ao sâu, khi thì lạc lối về nhà, và có lần bà bị mắc xương gà, ngay cả cụ Thạch
là người chuyên đi chữa bệnh hóc xương gà nhưng nay cũng phải đầu hàng trước
cái xương chắn ngay cổ họng Tý Ngan. Éo le thay hóc xương gà xa cành khế. Ấy thế mà theo lời bà kể đêm hôm đó có
ông da đen xì, lưỡi đỏ bóp cổ trợn mắt ói ra xương. Kỳ diệu hơn vào nạn đói Ất
Dậu năm 1945 rất nhiều dân đen đã bỏ mạng nhưng bà thì không. Bà đã từng bước,
từng bước trải qua mọi khổ ải, gian truân của cuộc đời. Trớ trêu thay bà lại bị
mất hút trong màn đêm đen ngòm, mù mịt. phải chăng bà đã không may ở mảnh đất
có hình tam giác mà một đỉnh nhọn tam giác đó lại chĩa vào ngôi miếu linh
thiêng của làng, nên cuộc đời bà mới lận đận, long đong. Sống phải thấy người, chết phải thấy xác, nhưng bà đã mất tích
không một dấu vết. Và sự mất tích ấy vẫn là một ẩn số. Có người cho rằng vì can
thiệp vào chuyện gia đình Khắt nên đã bị thằng Khắt xóm Từ giết chết. Nhưng
theo lời cụ Huy xóm Tải thì bà chết là do Chánh Roong lính Tây nhìn gà hoá quốc
tưởng bà là du kích nên không chút ngần ngại đã kết liễu đời bà. Suy cho cùng
đó cũng chỉ là suy luận, phán đoán của mọi người. Còn thực hư, sự tình về cái
chết của bà chưa có một câu trả lời cụ thể. Nên có rất nhiều khả năng xảy ra mà
không thể ngờ đến được. Trước khi bà biến mất khỏi làng, có lần bà bị lạc đường
thì được hai cái bóng đèn xuất hiện trước mặt, lăn trên đường dẫn bà đi từ xóm
Đó dần dần về tới nhà. Biết đâu cũng cái đêm định mệnh đó bà cũng được hai cái
bóng đèn hôm nọ dẫn bà đi về một nơi xa xôi nào đó và bà đang sống một cuộc
sống ấm no hơn, sung túc hơn, hạnh phúc hơn cuộc sống cam go, nghiệt ngã như
cuộc sống hiện tại này. Nhân tính không
bằng thiên tính ông trời đã sắp xếp mọi chuyện ắt phải có lí do của nó.
Cuộc đời Tý Ngan là một ẩn X, thì hãy để lúc bà ra đi cũng là một ẩn số. Và ẩn số
X kia như thế nào tuỳ thuộc vào suy nghĩ mỗi người. Còn riêng tôi bà là một
người hiền lành, lương thiện, chất phát, dám nghĩ dám làm thì chắc chắn sẽ gặp
được điều tốt đẹp vì ở hiền gặp lành, ở
ma gặp quái, gian tà gặp nhau và ông trời không bao giờ phụ người có lòng.
Nếu cõi âm mà có thật, giữa đất trời phương Nam xa xôi, chúng cháu, dù chỉ là
những người xa lạ, lần đầu tiên được nghe cái tên làng Vẽo, cái tên kỳ lạ Tý
Ngan cũng xin thắp cho bà chín nén nhang tàn, mười vạn đồng tiền âm phủ, đủ để
bà khỏi đói, khỏi rét giữa chốn thiên thu, không như cõi trần gian bi thương bể
khổ. Chốn Tây phương an cư cực lạc, kiếp
phù sinh chuyển hóa luân hồi.
Bùi Thị Hồng Điệp
Sinh
năm 1990. Quê Long An, Sinh viên chuyên ngành thư ký giám đốc, Trường đại học
Văn hóa Nghệ thuật TP HCM. Xúc động bởi cuộc đời nghèo khổ của bà Tý Ngan đã
làm bài tiểu luận như sau:
Trong văn học đương đại dân gian việt Nam đã có
những tác phẩm tiêu biểu viết về cuộc đời cực khổ nghèo nàn của người phụ nữ Việt
Nam. Ấn tượng nhất là tác phẩm VỢ NHẶT của KIM LÂN. Chuyện dựng vợ gả chồng là
chuyện hệ trọng trong cả đời người,thế mà Kim Lân lại dùng hình ảnh “Vợ nhặt”, một
sự gặp gỡ tình cờ và nhanh chóng tiến đến hôn nhân trong cái bối cảnh hiện thực
của truyện ngắn là nạn đói Ất Dậu 1945, một trong những thời kỳ đen tối trong
lịch sử. Kim Lân đã thổi vào tác phẩm thứ ánh sáng nhập nhoạng, mù mờ của một
buổi tối chiều “chạng vạng”, là hình ảnh
những con người “xanh xám như những bóng ma”, “nằm ngổn ngang khắp lều chợ”, “những
cái thây nằm cong queo bên đường”,một cuộc sống đang mấp mé bên bờ vực thẳm
giữa sự sống và cái chết, một không khí “vẩn lên cái mùi ẩm thối của rác rưởi
và mùi gây của xác người”.
Còn tác phẩm mà tôi được đọc là tác phẩm viết về
một người phụ nữ đói nghèo, bần cùng nhất xã hội và cũng là một người kỳ lạ
nhất, độc đáo nhất. Bà vừa sinh ra đã mang một cái tên không giống ai. Có lẽ là
thế hệ chúng ta ngày nay chưa bao giờ được nghe thấy đó là tác phẩm CHUYỆN BÀ TÝ NGAN của giảng viên Bộ môn
Quản lý Văn hóa - Trường đại học Văn hóa Nghệ thuật TP.HCM. Cô gái trong tác
phẩm của KIM LÂN còn may mắn hơn câu chuyện của bà TÝ NGAN, cái tên gắn liền
với con người bất hạnh. Tý Ngan cũng như bao đứa trẻ khác, được mang nặng chín
tháng mười ngày nhưng khi sinh ra lại nằm trong cái bọc thịt, tởm lợm mà khiến mọi
người ai cũng phải khiếp sợ khi nhìn thấy. Không như bao đứa trẻ khác, luôn có
cha, có mẹ chăm lo từng bữa ăn giấc ngủ, thì chưa đầy mười tuổi, Tý Ngan đã bơ
vơ trên cõi đời, mà vốn lẽ đời trẻ cậy
cha, già cậy con. Thật là chua xót, đắng cay khi đang tuổi ăn tuổi chơi mà
lại phải lo toan miếng cơm manh áo, lo kiếm kế sinh nhai….
Đọc xong câu chuyện tôi cứ ngỡ rằng số phận bà TÝ
NGAN sẽ kết thúc có hậu. Nhưng ngược lại, ai cũng cảm thấy xót xa và buồn thay
cho một con người vừa cực khổ, nghèo nàn, bần cùng của xã hội đương thời, lại
mất tích đầy bí ẩn trong đêm đông giá lạnh, sương sa và tuyết phủ. Chuyện bà Tý
Ngan có giá trị tư tưởng cao. Độc giả vẫn học được ở bà tinh thần lạc quan yêu
đời, đồng cảm chia sẻ với người đồng cảnh ngộ, sống chan hòa tình làng nghĩa
xóm, khí phách hiên ngang bảo vệ lẽ phải, sự công bằng, chống lại thói hống
hách bạo quyền…, đặc biệt là không tham lam những cái không phải của mình.
Lời bình dành cho giảng viên.
Lời
đầu tiên, em xin chân thành cảm ơn Thầy, vì đã đồng hành cùng chúng em trong suốt
môn học Soạn thảo văn bản, một phần kiến thức tất yếu của sinh viên. Không chỉ truyền
đạt những tri thức về cách soạn thảo văn bản, mà Thầy còn truyền dậy đạo đức,
lẽ sống làm người. Qua những câu chuyện cảm động, đọng lại trong chúng em cảm
xúc, cảm tưởng vể nhân cách sống, nhân tình thế thái, giá trị nhân văn khi là
CON NGƯỜI trong vũ trụ bao la. Giây phút chia tay, buồn vui xen lẫn, vui vì đã
được lĩnh hội kiến thức để làm hành trang cho đời, buồn vì phải xa Thầy, xa bạn
mà có hay chăng một ngày tao ngộ trùng phùng. Riêng em, còn nhiều lưu luyến và
không muốn môn học phải dừng lại. Em rất ấn tượng với cách giảng dậy của thầy,
lý luận phong phú cộng với thực tiễn sinh động, vừa khoa học vừa thiết thực. Có
một câu nói nổi tiếng của Thầy là Con
người giống nhau là ở sự khác nhau, qua đó cho chúng em nhận thức sâu sắc
về những người xung quanh, thế giới ngoài kia đầy rộng lớn, để có được cách ứng
xử hài hòa, mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh, đồng thời phải hướng mọi người
vì một mục tiêu chung thống nhất
như Năm anh em trên một chiếc xe tăng. Thầy
vừa sư phạm lại vừa mô phạm, chính điều này cho chúng em tính kỷ luật, cầu
tiến, năng động, sáng tạo và chiến thắng được bản thân mình. Chắc rằng Thầy
luôn mong và chúng em luôn hy vọng, từ những kiến thức mà Thầy truyền đạt sẽ
nâng cánh ước mơ cho chúng em bay xa, vươn xa tới chân trời khát vọng hạnh phúc,
sang giàu, dị thảo kỳ hoa ….
Lời
cuối, chúng em chúc Thầy mạnh khỏe, thành đạt để đã, đang và mãi mãi là người
chèo đò không mệt mỏi, đưa đò qua sông và mỗi một chuyến đò nặng trĩu tình yêu
cuộc sống và tri thức cuộc đời….
Cụ
Hạ, cụ Chăm, cụ Để ( xóm Minh Khai)
Các cụ nhắn gửi tới tác giả những lời góp
ý như sau.
Làng
ta đã trải qua 700 năm lịch sử và cũng đã sản sinh ra 6 người con vĩ đại bao
gồm 3 người đàn ông và 3 người đàn bà. 3 người đàn ông đó là: Cụ Vẽo (cụ tiền
điền), Cụ Trần Khát Chân (tướng quân nhà Trần), Cụ Phan Bá Vành (thủ lĩnh nghĩa
quân chống Pháp). Ba người đàn bà đó là: Bà Đỏ, bà Hậu Bòn, bà Tý Ngan. Tại sao
anh lại chỉ viết về bà Tý Ngan, một người đàn bà hành khất vĩ đại? Đành rằng
viết sử là rất khó nhất là sử làng bởi kho sử quốc gia chỉ chứa đựng những tài
liệu về lịch sử đất nước, lịch sử vĩ nhân, anh hùng dân tộc… nếu có tài liệu sử
làng phải là những làng nổi tiếng như làng Vạn Phúc, Hành Thiện, Xuân Đỉnh, Ba
Đình, 18 thôn vườn Trầu…Kho sử quốc gia dứt khoát không có tài liệu sử làng ta.
Sử liệu làng ta tồn tại trong trí nhớ của các cụ lão làng nhưng rất tiếc đến nay
cũng không có cụ nào để lại tài liệu viết tay về sử làng. Có chăng chỉ là gia phả từng dòng
họ. Anh đã viết và gửi về làng Thư gửi
làng Phú Vinh, Chuyện Bà Tý Ngan. Dân làng coi đây là hai tài liệu đầu tiên
về sử làng. Chúng tôi ghi nhận ở anh tấm lòng hiếu thảo với dân làng để dần dần
hình thành một quyển sử cho làng….
Nhân
đây cũng muốn nói với anh đôi lời. Viết sử đòi hỏi phải trung thành, thậm chí
phải tuyệt đối trung thành, không được thêm mắm dặm muối. Nhưng người viết sử
phải có cái tâm, thậm chí tâm phải rất sáng. Cũng nhắc lại để anh nhớ là, Hai
Bà Trưng khi đánh giặc Khựa rất anh hùng dũng cảm. Nhưng Hai Bà thất trận vì
giặc Khựa thâm độc trần truồng như nhộng làm cho nghĩa quân của Hai Bà vốn toàn
nữ không đủ dũng khí chiến đấu quả cảm như đã từng giáp chiến. Lũ giặc Khựa đã
chặt đầu hai bà bêu ngoài cổng chợ. Vốn giàu lòng nhân ái và với lòng kính yêu
vô hạn, ông cha ta đã truyền miệng rằng: Hai Bà đã trẫm mình xuống dòng sông
Hát Giang tuẫn tiết, đầy oanh liệt vẻ vang.
Cụ Ước (xóm Đống)
Cụ
Ước có thân hình to khỏe, làm việc quần quật mà sống rất thọ, qua đời ở tuổi
83. Cụ ăn nói rất có duyên, hài hước, tính tình dễ mến dễ gần, rất được dân
làng yêu quý. Cụ kể rằng, tháng 3 năm 1953 cụ nhìn thấy bà Tý Ngan đứng bán
lòng lợn tiết canh ở chợ Khô. Dân làng
vô cùng ngạc nhiên thì cụ phân trần rằng: Cái đêm trời tối om như mực, bà Tý
Ngan cầm dao ra khỏi làng nhưng lại bị lạc đường quên cả lối về. Như có một thế
lực âm binh nào đó bắt bà quần đi quần lại hết đồng mả lại ra đồng Sầm, hết lên
bờ lại xuống ruộng kể cả ruộng cày chưa đổ ải. Gần rạng sáng, nhưng giời vẫn
rất tối , có 2 bóng đèn dẫn bà đi nhưng
đến cầu Dều 2 bóng đèn liền vụt tắt. Tức thì một người đàn ông mặc áo nâu sồng,
đầu đội nón, một tay ôm rổ rau xương sông, tay kia dắt bà đi và cuối cùng đã
đưa bà về đến chợ Khô. Đó là một người đàn ông vợ chết đã mấy năm, đang rất cần
người phụ bán quán lòng lợn tiết canh. Bà Tý Ngan đã đổi đời từ đó. Từ kẻ ăn
mày trở thành người giàu có. Dân làng hỏi cụ Ước tại sao bà Tý Ngan không về lại thăm làng? Cụ Ước trả lời rằng, tôi cũng hỏi điều đó nhưng bà Tý Ngan cầm
tay tôi vừa nói vừa khóc: Kiếp chị là kiếp ăn mày, hôm nay ăn trắng mặc trơn
chị không dám về làng nữa.Về làng ngượng lắm! Thế mới biết bà Tý Ngan khổ
như thế nào? Nghèo thì dạn, giàu lại ngượng. Vốn là người hay nói chuyện đùa
vui nên câu chuyện cụ Ước kể, dân làng vẫn bán tín bán nghi dù mong cho đó là
sự thật…
*
Có một người đàn ông tên là Đĩnh, sinh năm 1945, nay đã 67 tuổi là chủ trang
trại trồng nhãn và nuôi cua đinh ở huyện đảo Cù lao Dung – Sóc Trăng lại tự
nhận mình là con trai bà Tý Ngan khi nghe một sinh viên trường Văn hóa Nghệ
thuật về quê nghỉ hè, đọc cho nghe chuyện bà Tý Ngan. Theo lời ông Đĩnh thì sau
khi về bán quán ở chợ Khô, vốn là người nhân hậu, thương người nghèo khổ nên bà
Tý Ngan đã mang cậu bé bị bỏ rơi ở đầu chợ về nhà nuôi và đặt tên là Đĩnh. Sau
này khi cha mẹ nuôi chết, Đĩnh tiếp tục bán quán. Năm 1964 đi bộ đội, chiến đấu
ở miền Tây, vì không có quê hương bản quán, không ruột rà thân thích nên sau
ngày giải phóng Đĩnh không về quê và đã ở lại lấy vợ miền Tây. Đĩnh nhớ loáng
thoáng, có lần mẹ Tý Ngan của mình gặp gỡ cụ Vòng, cụ Vóc người làng Vẽo đi chợ
Khô. Hai cụ trêu chọc Đĩnh rằng, mày về đằng ngoại không, đằng ngoại ở giữa làng
Vẽo, vườn có nhiều chuối nhiều gấc, chuối để nấu ốc, gấc để đổ xôi, có bà con
lối xóm sang chơi…
Nguyễn Thị Phương(Xóm
Đông- Làng Vẽo)
Là thế hệ 9X,
sinh ra và lớn lên vào cuối thế kỷ XX
khi làng Vẽo đã trải qua những năm tháng đầy máu lửa và nghiệt ngã, đắng cay và
khổ cực mà chỉ biết được qua lời kể khoan
nhặt khoan thì của bà Nhiếp, bà Vàng,
bà Quyên, bà Hoa nhưng chỉ khi đọc xong Chuyện bà Tý Ngan, cô sinh viên ngành ngôn ngữ học, Trường Đại học
KHXH&NV – Đại học quốc gia TP HCM, Nguyễn Thị Phương, một người con của
làng Vẽo, mới hình dung hết được bức tranh đầy đủ về chân dung một người đàn bà
bất hạnh nên đã viết ra lời bình với nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau.
Lần giở từng trang, câu chuyện như đưa người
đọc về với cuộc sống nghèo khổ, cơ cực mà nồng ấm tình người của làng Vẽo xưa
kia. Hiện lên đầy li kỳ là hình ảnh bà Tý Ngan sinh ra trong cái bào thai đầy
huyền ảo, suốt cuộc đời lam lũ dầm mưa dãi nắng, luôn có những thần linh cứu
giúp khỏi tay tử thần, để rồi cuối cùng lại là cái chết đầy bí ẩn của bà, là
dấu chấm hỏi cho dân làng mãi mãi về sau.
Sống giữa cái
cảnh ngày đói đêm rét nhưng bà luôn ứng
xử tài tình và đầy lòng tự trọng, không bao giờ đi xin ăn ở làng bên, không bới
trộm khoai hay trộm gà của dân làng. Thật là đáng kính biết bao! Nết ăn của bà được
tác giả viết rất nhiều, kể rất nhiều, xin ăn nhưng không bao giờ hạ thấp lương
tâm mình, trong khi cái ở, cái mặc được miêu tả rất ít ỏi, chỉ vài ba dòng ngắn
ngủi. Điều đó chứng tỏ bà bị cái đói hành hạ, giằng xé từ ngày này sang tháng
khác. Cái ăn còn chưa có huống chi nói gì đến cái mặc, cái ở. Chỉ xin một tí,
một tí thôi, nhưng khi được mời ăn thì bà ăn hết mình, không khách sáo, làm bộ
làm tịch rất đúng với bản chất thật thà, mộc mạc của người dân làng Vẽo quê tôi.
Một câu nói bất hủ mà cứ đọc lên là người ta nghĩ ngay đến bà Tý Ngan – một con
người gày gò mà dẻo dai, thật thần kỳ và thật đáng ngưỡng mộ, Chín bát cơm, lùm lùm bát cháy, ba bát mày
mạy, một bát ngô rang. Đây là câu
nói vang vọng, văng vẳng và đầy khiếp đảm cho cả một thế hệ sinh ra và lớn lên
trước và sau nạn đói Ất Dậu kinh hoàng mà đến nay mỗi khi nhắc lại ai cũng phải
rùng mình kinh sợ. Ngay cả những món giun xào, đỉa luộc, cóc nấu riêu bà cũng
đã từng ăn và coi đó là món đặc sản, khoái khẩu nhất trần đời trong khi ai cũng
nổi da gà khi thoáng nghe, thoáng nhắc. Cái đói, cái nghèo năm Ất Dậu, đã đẩy
cả làng Vẽo vào cảnh chết chóc thảm thương, người chết la liệt, ngổn ngang đầu
làng cuối xóm. Nhờ giời, bà Tý Ngan vẫn sống và cười đầy lạc quan, yêu đời như
tin vào phép thần kỳ cho một ngày mai tươi sáng. Xin được mấy củ khoai vào tình
cảnh này thật là quý giá, vậy mà khi nhìn thấy người gần chết đói bà liền cho
ngay không một chút đắn đo do dự mặc dù bụng bà cũng đói lắm, cồn cào lắm. Phải
là một người có lẽ sống cao đẹp, thắm tình làng đượm nghĩa xóm mới có nghĩa cử
phi thường như thế. Nên khi bà ốm, dân làng đã chăm sóc bà tận tình như người
thân yêu nhất. Không chỉ vậy bà còn là người có tinh thần nghĩa hiệp cao cả,
luôn đứng lên bảo vệ lẽ phải, lẽ công bằng chỉ để mong giữ cho được rường cột đạo
lý tối lửa tắt đèn, tình làng xóm, nghĩa đồng bào nhất là khi ai đó gặp cảnh ngặt
nghèo gieo neo. Đang lúc nửa đêm, khi nghe tin thằng Khắt đánh vợ, như một bản
năng vô thức vốn có, không đắn đo lo lắng bà liền vồ lấy con dao, chạy một mạch
ra đầu Rộc, vừa đi vừa quát: thằng Khắt,
mày chết với tao… mày chết với tao…. Cả cuộc đời sống lam lũ quạnh hiu tứ
cố vô thân mà bà luôn san sẻ khoai sắn với người đói khát, quan tâm giúp đỡ mọi
người trong chòm xóm và bà nhận lại là
tình yêu thương, quý mến của mọi người trong làng.
Trong cái đêm
đen định mệnh ấy, bà đã ra đi một cách thật là bí ẩn. Bà không còn nhưng con
người bà, tấm lòng bà và những giai thoại về bà sẽ in đậm mãi mãi và được dân
làng lưu truyền cho các thế hệ con cháu đời sau. Con người mang đầy yếu tố
huyền bí ấy sẽ còn là những ẩn số mà rất cần có thêm những lời kể của các cụ
trong làng để sáng tỏ hơn về lịch sử làng ta. Là một người con làng Vẽo, thế hệ con cháu của bà
Tý Ngan rất khâm phục và yêu thương, khi nơi mình sinh ra lại có một con người
đã trở thành giai thoại đầy khí phách, là tấm gương về nết ăn, nết sống cho mỗi
người.
Đôi
lời dành cho tác giả
Đất khách muôn
trùng sao nhỏ hẹp
Quê nhà một góc
nhớ mênh mông
Có thể nói rằng bác là người xa quê nhưng rất gần quê.
Dù đã xa quê nhiều năm nhưng lại có thể kể được câu chuyện
lịch sử của làng mình, thật hay và cảm động làm chúng cháu rất khâm phục. Là
người đã thành danh, đi đây đi đó, nhưng những thói quen, những ngôn từ
riêng có rất gần gũi và thân thương của quê mình bác vẫn nhớ như in, không
những được thể hiện trong câu chuyện này mà bác còn sử dụng nó trong đời
thường, nên khi trò chuyện làm cho chúng cháu rất đỗi ngạc nhiên. Không cần
giới thiệu, ai cũng nhận ra bác là người làng Vẽo. Chắc rằng, quê hương phải
luôn luôn canh cánh trong tim và một tình yêu tha thiết, nỗi lòng hướng về nguồn
cội thì bác mới có thể viết nên câu chuyện hấp dẫn và ly kỳ đến như thế . Được
gặp gỡ, nghe bác kể chuyện về làng quê mình đã khơi dậy trong cháu một tình yêu
quê hương chòm xóm và những tri thức về lịch sử của một làng quê điển hình ở
vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Cháu mới biết được tên xóm, tên làng cũng
thật là độc đáo. Từ Đó Đống Tải Chùa
Đông, Từ Đó Mía Vượt Bến Sầm, Cau Giành Vẽo Giắng, Khuốc Tuộc Lác Sổ, Sồng Sinh
Ra Sen…...
Cháu rất khâm phục và tâm đắc khi bác mô tả cảnh đẹp của
đất nước ta: Tất cả đều phải sợ thời gian, nhưng thời gian lại sợ những danh
thắng ở Việt Nam. Còn khi nói về tội ác tày trời của PonPot- IêngXaRy, bác viết
rằng: So với tên đồ tể PonPot, bỗng chốc Hitle trở thành kẻ giết người tập sự. Hai
câu văn này thì ngay cả giảng viên văn Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh cũng
phải thốt lên rằng, tác giả đã sử dụng ngôn từ đạt đến mức nghệ thuật. Cảm ơn
bác đã tận tâm viết lên câu chuyện về bà Tý Ngan, để cho thế hệ trẻ chúng cháu
được thưởng thức một tác phẩm văn học đặc sắc. Cảm ơn bác – một cây bút tiên
phong viết về làng, để ôn lại lịch sử đầy thăng trầm của xóm làng, để vui buồn,
để tự hào, thán phục và rút ra những bài học quý giá….
Tự nhủ với lòng mình rằng hãy cố gắng học tập, tu dưỡng đạo
đức, xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh, nghĩa tình, yêu thương
chòm xóm…. Rất mong bác dành tâm sức viết nhiều hơn nữa về lịch sử làng Vẽo ta
bác nhé ! Kính!
Ông
Phạm Đình Sự (xóm Chùa)
Sinh năm 1952, từng làm
cán bộ kỹ thuật ở vùng Than Quảng Ninh, sau năm 1975 về công tác tại
Cần Thơ. Chức vụ trước khi về hưu là Hiệu trưởng Trường cao đẳng Giao
thông vận tải Cần Thơ. Rất xúc động khi đọc truyện ngắn Chuyện bà
Tý Ngan, ông cho rằng tất cả ai là con dân làng Vẽo, nghèo khổ đi xa
lập nghiệp nên hình nên vẻ thì đều là con cháu bà Tý Ngan bởi đều
lập thân vượt khó, khí phách hiên ngang, trọng nghĩa khinh tài, giữ
được thể diện cho làng…
Ông đưa ra lời bình như sau: Chuyện bà Tý
Ngan, thoạt nghe
tiêu đề của truyện ngắn, chắc hẳn chúng ta ai cũng thắc mắc ngay ý nghĩa của
cái tên kì quái ấy, và sau khi đọc tiếp vài đoạn, cuối cùng mới thấm thía được,
cái tên đôi khi cũng nói lên số phận của một con người…
Chúng ta, dù sang giàu hay nghèo khó, thế nhưng khi có gia
đình ở cạnh bên, chúng ta vẫn hạnh phúc hơn rất nhiều so với những người cơ
nhỡ, không nhà cửa, không người thân thích.Chắc hẳn chẳng ai xa lạ gì hình ảnh
lem luốc, thất thểu, yếu ớt, van nài mỗi khi bắt gặp hình ảnh của một người ăn
xin, ánh mắt xa xăm vô định, sâu thẳm và mờ nhạt, hệt như chính tương lai của
họ…Bà Tý Ngan cũng không phải là ngoại lệ…
Đời người ăn xin, bữa no đếm trên đầu ngón tay. Đói, rét,
ốm đau, bệnh tật,…dần trở thành lẽ thường tình. Có lẽ vì không ai có quyền được
lựa chọn số phận cả, thế mới thấy cuộc sống đôi lúc thật bất công. Có ai sinh
ra muốn trở nên quái dị? Có ai sinh ra muốn mình bị xem là tai ương của người
khác? Cuộc đời bà chồng chất nhiều câu hỏi tương tự, thế nhưng ai sẽ trả lời
cho bà? Tại sao bà phải chịu vô số những tủi nhục, xui rủi? Đến cả dân dã như
món rượu nút chuối cũng như sơn hào mĩ vị mà trong đời bà chỉ nếm được có một
lần.
Số phận lấy đi của bà nhiều thứ, nhưng phải chăng vì vậy mà
nhiều phen bà thoát khỏi nanh vuốt tử thần? Hiện thân của Lục Phán trong giấc
mơ chính là dấu hiệu cho thấy bà vẫn được ân trên che chở và bảo vệ. Phải, con
người ấy tuy bất hạnh xấu xí, thế nhưng tấm lòng thì lại bao la như biển…Bà
không nghĩ đến bản thân mình, nên chỉ xin ăn trong làng, bà muốn bảo vệ danh dự
của quê hương. Dù hành khất ăn xin, bà vẫn chia sẻ hết lương thực của mình cho
những người bất hạnh hơn.
Hơn ai hết, bà là người hiểu rất sâu sắc hai
từ lương thực, tức là khi ăn khi uống phải có lương tâm, phải biết chia sẻ cho
người thân, cho đồng loại... Bà là người
ăn xin nhưng có cái “Sĩ”, bà không ỷ lại vào người khác. Sau khi hết thóc, dù
cụ Nẫm mời bà ở lại, bà vẫn lạy tạ xin lên đường, như nói với tất cả mọi
người cuộc sống bà tựa như ngọn gió, phiêu du khắp nơi, và gió thì không bao
giờ ngừng nghỉ…
Không màng đến những câu châm chọc, bỡn cợt, bà tiếp tục
sống với món đỉa rang, với chuột con đỏ hỏn, thằn lằn cóc nhái, canh rau giun
đất,… mà nhiều người nghe mà nổi gai
ốc, còn cùng cụ Chuyển đổ cháo phát chẩn trong nạn đói năm ấy, bà còn giúp đỡ
mọi người mà không ngại khó khăn, dù cho…đó là lần cuối cùng bà giúp đỡ được
người khác.
Có người từng nói, “Hoa nở rồi lại tàn, sao tỏa sáng rồi
lại biến mất, sinh mạng con người chỉ là một phút giây ngắn ngủi”. Những cánh
hoa muôn màu sắc, nhưng cũng sẽ héo đi, những vì sao lấp lánh tỏa sáng trong
đêm tối, rồi cũng sẽ bị bình minh làm mờ nhạt…Vẻ đẹp nào cũng sẽ theo thời gian
tan biến, ngẫm nghĩ lại, dù cuộc sống của bà đã kết thúc, thế nhưng vẻ đẹp của
tâm hồn thì không hề mất đi...
Mặc dù số phận bất công với bà, thế nhưng bà đã sống, một
sức sống mãnh liệt, sống không phải tạm bợ, qua ngày đoạn tháng…Con người vừa
sinh ra, mong ước điều gì? Có phải…đó là hạnh phúc không? Chúng ta lớn lên, đi
làm, kiếm tiền, lập gia đình, … có phải cuối cùng cũng để có được một cuộc sống
an nhàn, hạnh phúc bên những người ta yêu thương không? Bà Tý Ngan thì sao?
Hạnh phúc của bà ấy là gì? Bà ấy sống vì cái gì? Hạnh phúc với bà vốn dĩ đã quá
xa xỉ mà! Sung sướng với bà là cái chi chi ?!...
Cuối truyện, bà biến mất, và chẳng ai biết bà còn sống hay
đã chết. Có lẽ, bà đã chết rồi, vì nếu còn sống, bà sẽ quay lại nơi làng Vẽo,
nơi bà đã sinh ra, và mọi người lại được thấy dáng người nhỏ bé với cái dáng đi
quen thuộc ấy…Đọc tác phẩm, tôi có liên tưởng đến nhân vật Chí Phèo của Nam
Cao. Nhưng Chí Phèo chỉ là nhân vật tưởng tượng…Còn bà Tý Ngan, ít ra không ai
quay lưng lại với bà, bà vẫn được dân làng xem như một thành viên, vẫn cho bà
bát cơm bát canh, củ khoai củ sắn, vẫn cảm động tấm lòng cao cả bên trong con
người bất hạnh đó. Mộ bà tuy chưa được lập vì chết không thấy xác nhưng
dân làng vẫn lập miếu thờ bà trong tâm khảm, trong cõi lòng và không
ai có thể phủ nhận được rằng, trong lòng họ đều nhớ đến bà Tý Ngan.
Nên chăng dân làng xây cho bà một miếu thờ nho nhỏ
trên mảnh đất hình tam giác khắc nghiệt ngày nào…
Mặc dù xa quê
hơn hai ngàn cây số, ông vẫn đau đáu về cụ Bàng xóm Tải (tên gọi thân mật của
cây bàng 300 tuổi tọa lạc đầu xóm Tiền Phong) nên mỗi lần về quê ông đều thắp
hương cho cụ Bàng và ông thiết tha đề nghị với bô lão trong làng cần phải gửi
văn bản đến Trung ương hội Sinh vật cảnh Việt Nam phong tặng cụ Bàng trở thành
Cây di sản Việt Nam, một danh hiệu cao quí chỉ dành cho những cây cổ thụ có
tuổi đời trên 100 tuổi và gắn bó với làng quê đất Việt…
Với nỗi nhớ
không bao giờ nguôi ngoai về làng Vẽo, ông Phạm Đình Sự làm thơ về làng với tâm
trạng thật đa đoan…
Đâu còn bờ tre cót két
Trưa hè êm ả ru trâu
Đâu còn ao làng soi bóng
Nước trong cả xóm gội đầu
Ta vơi dần trong làng xưa
Hay làng đã vơi trong ta
Bà con vừa quen vừa lạ
Xóm ngõ như gần như xa
Thời gian rẽ về hai phía
Thẩn thơ bước bước lại dừng
Quê hương biến đổi không ngừng
Rạng đông tràn đầy sau lưng…
Đường về ríu
rít bước chân
Vui nào hơn
được về quê buông diều
Vẽo ơi! Ta vẫn tìm
về
Vẫn trong đáy mắt cũ càng tôi yêu...
Cụ Phạm Đồng Huy (xóm Tải)
Cụ Phạm Đồng
Huy, dân làng còn gọi là cụ Mầu, từng đi bộ đội tham gia kháng chiến chống Mỹ,
từng là sinh viên đại học thủy lợi tại Cộng hòa Dân chủ Đức, sau 35 năm công
tác, hiện đang nghỉ hưu tại quận 5 - thành phố Hồ Chí Minh, bên người vợ hiền
là con gái Hàng Ngang - Hàng Đào ngày nào, với hai anh con giai đã trưởng
thành, cũng đã có vợ có con....
Cụ
đưa ra lời bình: Đạo lý của tổ tiên là: Đã
thương thì thương cho chót, đã vót thì vót cho tròn. Năm 1945-1949 làng Vẽo
có 90 nóc nhà và 500 nhân khẩu. Bình quân mỗi nhà cho bà Tý Ngan 2m2 ruộng để canh tác thì đời bà Tý Ngan
đâu đến nỗi khổ hơn cả chị Dậu trong tác phẩm TẮT ĐÈN của Ngô Tất Tố. Nếu trong
xã hội phong kiến chỉ có quan và dân thì bà là dân đen nhất, đen không thể đen
hơn được nữa. Bà còn dưới cả thằng hủi… Chị Dậu còn có con chó để bán, bà Tý Ngan
chỉ có một giàn gấc sai quả vào tháng củ mật nhưng lại không bán mà cho bà con
hàng xóm đồ xôi. Xót xa cho bà là không được sống đến ngày cải cách ruộng đất
để được chia ruộng canh tác như bao người khác.
Cũng
theo lời cụ Huy thì cái chết của bà Tý Ngan lại rất bi hùng. Nếu cứ trung thành
với câu nói đầu tiên thì bà sẽ không chết: Thằng
Khắt! Mày uống rượu say, mày đánh vợ mày, đêm nay mày chết với tao… mày chết
với tao….
Nhưng đến đầu
Rộc, chỗ rẽ ngang sang xóm Từ bà chỉ còn la hét: mày chết với tao… mày chết với tao….
Kia rồi, một
bóng đen từ cổng nhà Khắt đi ra bà liền vung dao lên và hét: mày chết với tao… mày
chết với tao….
- Đoàng… Đoàng…
Hai phát súng
lục nổ đanh gọn, xé toang màn đêm tĩnh mịch.
Rất tiếc! Bà Tý
Ngan đã nhìn gà hóa cuốc. Người mà bà vung dao định chém đó chính là Đại úy
Roong. Hắn đang dẫn lính đi tuần. Vì giời tối om, tháng củ mật mà hắn cũng nhìn
cuốc hóa gà, nhìn bà hóa du kích. Hắn vội cười khoái trá vì nghĩ rằng một chiến
binh du kích đã nộp mạng, ngày mai được quan Tây thưởng tiền và được ăn mừng
chiến quả. Khi rọi đèn pin vào xác chết, mặt hắn liền biến sắc. Nhưng để xốc
lại đội hình, trước bọn lính dõng, hắn buộc phải quát tháo om sòm:
- Cái con mụ đàn bà
hôi như cú vọ này! Mày ra đây làm gì? Làm vướng chân tao! Lính đâu?
Phi tang!
Ở
một hướng khác, toán du kích Việt Hùng do đội trưởng Lê chỉ huy đang bí mật đi
trinh sát quy luật tuần tra của địch, khi nghe tiếng súng nổ bất thình lình, anh
Lê liền uốn lưỡi giả giọng con ễnh ương kêu lên chín tiếng, cầm con cọc kẹ quơ
lên quơ xuống chín lần theo hình bán nguyệt. Anh Văn và anh Túc nhanh chóng tập
hợp theo ám hiệu của người chỉ huy, họ nói thì thào chỉ cho sáu cái lỗ tai nghe
được. Xác quyết rằng cuộc hành quân đã bị lộ thậm chí bị mai phục nên đã vội vã
rút về mật cứ. Ba bóng đen du kích mất hút vào chín tầng sâu đen thẳm của màn
đêm, càng làm cho cái chết của bà Tý Ngan trở thành ẩn số X lặn chìm mãi mãi
trong màn đêm đen thẳm…
-Hết-
9
bát cơm, lùm lùm bát cháy, 3 bát mày mạy, 1 bát ngô rang…
*****
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét